top of page

BA NGÔI THIÊN CHÚA (1)

HungT

Jun 18, 2025

Ba Ngôi Thiên Chúa
Tác giả: Viện Thần Học Việt Nam



Lời Giới Thiệu

“Ba Ngôi Thiên Chúa” là tài-liệu học tập của Hiệp Hội Huấn-Luyện Giáo-sư Tin-Lành (Evangelical Teacher Training Association).

Tài-liệu nhằm giúp cho những người có trách-nhiệm lãnh-đạo trong Hội Thánh, cũng như cho các tín-hữu muốn tăng-trưởng vững vàng trong đức-tin biết được Đấng mình tin yêu và thờ-phượng.

Dù là tài-liệu Thần-học, nhưng soạn rất dễ hiểu, thích ứng cho đại đa số tín-hữu. Viện Thần-học mong tài-liệu này sẽ giúp ích được nhiều cho Hội Thánh và Tín-hữu.


Viện Thần-Học Việt-Nam.


Mục Lục

Chương 1: Bản Thể Thượng Đế.

Chương 2: Thượng Đế Vô Hạn.

Chương 3: Thượng Đế Thánh-Khiết, Chính-Trực Và Công-Bình.

Chương 4: Thượng Đế Chân-Thật, Thành-Tín Và Yêu-Thương.

Chương 5: Công Trình Của Thượng Đế.

Chương 6: Tiền Thân Và Sự Nhập-Thể Của Chúa Cứu Thế Giê-xu.

Chương 7: Thần-Tính Của Chúa Cứu Thế Giê-xu.

Chương 8: Sự Chết Hy-Sinh Của Chúa Cứu Thế.

Chương 9: Sự Phục-Sinh Của Chúa Cứu Thế.

Chương 10: Sự Tái-Lâm Và Ngự Trị Của Chúa Cứu Thế.

Chương 11: Ngôi Vị Và Quyền-Năng Của Đức Thánh Linh.

Chương 12: Đức Thánh Linh Và Người Tin.




Chương1: BẢN THỂ THƯỢNG ĐẾ

(The Nature of God)


Môn...

...học về Thượng Đế là một môn học vĩ đại nhất của con người. Đó là một đề-tài không bao giờ tát cạn nổi. Nguồn của mọi hiểu biết về Thượng Đế là chính Thượng Đế. Ngài tự-tỏ mình cho con người qua vũ trụ mà Ngài tạo dựng và qua Thánh Kinh do Ngài cảm-thúc.

Các nhà thần-học phân biệt thần-học tự nhiên (natural theology), những gì biết về Thượng Đế qua thiên nhiên, và thần-học mặc-khải (revealed theology), những gì biết về Thượng Đế qua Thánh Kinh.

Khi con người quan sát thế giới quanh mình, họ thấy có một số bằng-chứng về Thượng Đế. Đối với những người có mắt để nhìn, thì “các từng trời rao-truyền sự vinh-hiển của Đức Chúa Trời, bầu trời giải-tỏ công việc của tay Ngài làm ” (Thi Tv 19:1). Thế giới bao la trong đó chúng ta đang sống đây cần có một Thượng Đế. Vì vậy Ngài phải hiện hữu. Giải thích cõi tạo vật không có Đấng Tạo Hóa cũng giống như liệng dây thừng vào khoảng không rồi leo lên, hay xây một ngôi tháp trên không khí vậy.

Nhưng hiểu biết về thiên nhiên hay thần-học tự nhiên có đủ giúp ta biết về Thượng Đế không? Hãy đọc RôRm 1:18-25. Đoạn này mô-tả hình ảnh dân ngoại biết về Thượng Đế qua thiên nhiên. Lời Phao-lô nói “Thế-gian bởi sự khôn-ngoan riêng chẳng biết Đức Chúa Trời” (ICôr1Cr 1:21) rất đúng với lịch-sử các hệ-thống tôn-giáo.

Không một tôn-giáo nào thể hiện được một quan niệm trọn vẹn về Thượng Đế, dầu nhiều tôn-giáo có những ý niệm rất đặc sắc về Ngài. Con người cần sự mặc-khải của Lời Thượng Đế và Con Ngài để hiểu biết về Ngài.


THƯỢNG ĐẾ LÀ HỮU THỂ SỐNG

(God is a Living Being)


Thiên Nhiên Chứng Tỏ (Shown By Nature)

Trong thiên nhiên có nhiều bằng-chứng tán trợ cho niềm tin về Thượng Đế. Trải qua nhiều thế kỷ, các nhà thần-học Cơ-đốc đã lấy những sự-kiện trong thiên nhiên để lập thành những luận cứ xác-chứng sự hiện hữu của Thượng Đế. Những lập-luận tồn tại lâu hơn hết là:

-Vũ Trụ Luận (Cosmological Argument)

Cũng có thể gọi là nhân quả luận, hễ có quả ắt phải có nhân tương ứng. Đã có vũ trụ là hệ quả, tất phải có một nguyên nhân sinh ra nó. Nguyên nhân đó chính là Thượng Đế.

-Cứu Cánh Luận (Teleological Argument)

Thế giới này có sự hài hòa và có chủ đích. Từ các nhà thiên-văn quan sát bầu trời cho đến các nhà vật-lý, quan sát nguyên tử hay tế bào, đều thấy mọi sự vật có sự sắp xếp kỳ diệu và có mục đích, như vậy phải kết luận rằng có một hữu thể khôn-sáng tạo ra chúng.

-Đạo Đức Luận (Moral Argument)

Vì con người là vật có đạo đức, biết phân biệt phải trái, nên phải có một Đấng toàn thiện tạo dựng và phán-xét họ.

-Thực Thể Luận (Ontological Argument)

Trong suy tư của con người thì cần phải có một Đấng tuyệt đối, yếu tính căn-bản của Đấng tuyệt đối là hiện hữu. Như vậy trong thực-tế phải có Đấng đó. Nếu không, mọi lý-luận của con nguời đều chỉ là tương đối, chẳng đi tới đâu hết. Chữ Hy-lạp ontos có nghĩa là “trên thực tế” hay “thật ra”.

-Tôn Giáo Luận (Religious Argument)

Các nhà khảo-cổ và nhân-chủng nhận thấy rằng con người ở đâu, thời nào cũng đều có tôn-giáo. Vì hiện tượng tôn-giáo có tính cách phổ quát như vậy nên nó phải có phần đúng. Có lẽ trong các lập-luận trên không có lập-luận nào tự nó có đủ bằng-chứng thuyết phục, nhưng nếu tổng hợp lại, chúng đủ sức chứng-tỏ niềm tin nơi Thượng Đế là hữu lý.


Kinh Thánh Xác Nhận (Affirmed By Scripture)

Kinh Thánh xác nhận hiển nhiên là có Thượng Đế. Câu đầu tiên của Kinh Thánh “Ban đầu Đức Chúa Trời” đặt cứ điểm cho toàn bộ Kinh Thánh, sau đó không có chỗ nào chối bỏ hay bàn cãi sự-kiện đó cả.

Mỗi trang sách Thánh đều ghi đậm hình-ảnh của Thượng Đế Hằng Sống, nên nếu chấp nhận giáo-huấn của Kinh Thánh ắt phải xem vô-thần là tà ngụy. Kinh Thánh có chỗ nói rằng kẻ vô-thần là ngu dại, lý-luận của hắn phát xuất từ tấm-lòng hơn là từ trí óc (ThiTv 14:1, 53:1).


THƯỢNG ĐẾ LÀ HỮU THỂ HỮU VỊ

(God is a Personal Being)


Sự-kiện Thượng Đế là một ngôi vị đưa lại những hệ quả quan-trọng. Chính vì Ngài là một ngôi vị nên sự mặc-khải, tương-giao và cầu-nguyện mới có ý nghĩa. Thượng Đế không phải chỉ là năng lực mù quáng, cũng không phải là tổng hợp của mọi sự vật, nhưng Ngài là một Đấng có thể nói, nghe, sai phái, ban phước, và có nhiều hoạt động khác nữa.

Vì Ngài là một ngôi vị, nên người ta có thể biết Ngài, tin-cậy Ngài, yêu-thương Ngài, tôn-thờ Ngài, và phục-vụ Ngài. Kinh Thánh tỏ-rõ rằng Thượng Đế là một ngôi vị.


Những Suy Luận Từ Kinh Thánh (The Multitude of Biblical Inferences)

Khắp trong Kinh Thánh, nơi nào nói về Thượng Đế đều dùng tên và nhân xưng đại danh từ, điều đó chứng-tỏ Ngài là một đấng bậc (ngôi vị). Thêm vào đó, nhiều chỗ trong Kinh Thánh mô-tả Ngài có 3 đặc-điểm thiết yếu của cá tính: trí-tuệ, tình cảm và ý chí (xem ThiTv 139:1-6, NaNk 1:2, 3 ITês1Tx 4:3 5:18).


Lời Tuyên Bố Rõ Ràng Của Kinh Thánh (XuXh 3:13, 14 - The Explicit Biblical Statement)

Khi Môi-se hỏi tên Thượng Đế là gì để ông nói lại cho dân Y-sơ-ra-ên biết, Ngài đáp rằng: “Ta là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu.”

Tên đó rất có ý nghĩa, vì nó cho thấy Thượng Đế tự có, vĩnh cửu và là một ngôi vị, là Đấng “hiện có, trước đã có, và còn mãi về sau” (KhKh 11:17). Hình như đó là nguyên ngữ của chữ Giê-hô-va, là tên gọi Thượng Đế của người Do-thái. Cựu-ước nhắc đến tên này hơn 6.000 lần. Mỗi lần nhắc là một lời-chứng về vị phẩm của Thượng Đế.


THƯỢNG ĐẾ LÀ HỮU THỂ THẦN LINH

(God is a Spirit Being)


Lời Dạy Của Chúa Giê-xu (LuLc 24:39, GiGa 4:24) (The Teaching of Christ)

Câu Chúa trả lời cho người đàn bà Sa-ma-ri “Đức Chúa Trời là thần” là một câu rất đơn giản về văn phạm, nhưng lại rất sâu sắc về thần-học. Trong nguyên ngữ Hy-lạp không có bất định mạo tự “một.” Ngài không phải là một vị thần, mà Ngài là thần-linh: Bản thể của ngài là thần-linh.

Thần-linh có nghĩa đối lập với vật chất hay thể xác, như trong lời Chúa nói với môn-đồ sau khi Ngài sống lại. Họ hoảng sợ tưởng mình thấy một vị thần nên Ngài trấn an họ: “Thần thì không có thịt và xương, mà các ngươi thấy ta có.” Chính vì Thượng Đế là thần nên “chẳng có ai từng thấy Đức Chúa Trời bao giờ” (GiGa 1:18).


Điều Răn Thứ Hai (XuXh 20:4,bb b5, ThiTv 145:3 - The Second Commandment)

Muốn hiểu “Mười Điều Răn” thì phải biết bản-thể của Thượng Đế. Điều răn thứ hai minh giải nguyên-tắc nầy. Vì Ngài là thần-linh nên không một loại vật chất nào có thể đại diện trung thực cho Ngài được.

Một vật hữu hình, dù chạm trỗ tinh vi khéo léo đến đâu, cũng làm lệch lạc nhận thức về Thượng Đế của người thờ-phượng. Chẳng những làm lệch lạc mà còn thu hẹp nữa. Cái gì thuộc về vật chất đều bị giới hạn trong thời gian và không gian, trong khi Thượng Đế là thần-linh nên không bị hạn chế trong cái gì cả.


Hình-Ảnh Thượng Đế (IICôr 2Cr 4:4; CôlCl 1:15) (The Image of God)

Nếu Thượng Đế có bản thể vật chất hay có cơ thể, thì ta có thể mô phỏng hình dạng Ngài được, nhưng Thượng Đế không cùng bản-chất với thế giới vật chất vì ta không thể thấy Ngài được với con mắt vật chất (GiGa 1:18). Thực tế là Môi-se còn được chỉ dạy là không ai có thể nhìn vào mặt Thượng Đế là thần-linh thì câu nói “con người được dựng nên theo hình ảnh Thượng Đế ” có nghĩa gì (SaSt 1:27)?

Những nơi khác trong Kinh Thánh cho biết hình-ảnh đó bao gồm sự công-chính, tri-thức, thánh-khiết (CôlCl 3:10, ÊphEp 4:24). Như vậy hình-ảnh Thượng Đế nơi con người là phẩm vị, là đạo đức chứ không phải là hình thể vật chất.


THƯỢNG ĐẾ LÀ HỮU THỂ ĐỘC NHẤT

(God is One Being)


Cơ-Đốc Giáo Và Đa Thần Giáo (PhucDnl 6:4, 5, IVua 1V 8:60, ÊsIs 42:8, 9, 44:6-8, 45:5, 6, 12, 46:9, MacMc 12:29, 30, GiGa 10:30, ICôr1Cr 8:4, ÊphEp 4:6, ITim1Tm 2:5)

Điều răn thứ nhất vang rền tại đỉnh Si-nai là bởi có lý-do xác đáng. Sự thờ lạy mặt trời, một vật thể có nhiều năng lực nhất trong thiên nhiên, rất phổ biến trong các dân-tộc của thế giới cổ.

Người Ai-cập thờ mặt trời dưới danh hiệu thần Ra. Thần Ba-anh của người Phê-ni-xi, Mô-lóc của người Am-môn, Ha-đát của người Sy-ri, Ben của người Ba-by-lôn, đều là những vị thần mặt trời. Sự thờ lạy mặt trời, mặt trăng và các thiên thể, là một trong những tội bị Kinh Thánh lên án không tiếc lời.

Ngay từ đầu, dân Y-sơ-ra-ên đã được cảnh cáo là phải coi chừng “kẻo các ngươi ngước mắt lên trời, thấy mặt trời, mặt trăng và ngôi sao cùng các cơ binh trên trời mà đem lòng thờ lạy, phục sự chúng chăng” (PhuDnl 4:19). Kinh Thánh nói trước nếu dân-tộc nào vi phạm điều răn này sẽ bị ném bỏ. Đối với cá nhân cũng vậy, bất kỳ nam, phụ, lão, ấu, nếu thờ lạy mặt trời, mặt trăng hoặc các cơ binh trên trời, thì sẽ bị xử tử vì đã làm một “điều gớm ghiếc dường ấy” (17:2-5).

Dân Do-thái sống giữa các dân-tộc đa thần (GiosGs 24:2,14,15, CacTl 10:6, IIVua2V 17:33). Ta có thể thấy sở dĩ họ được kêu gọi, biệt riêng ra là cốt để họ làm-chứng cho tính cách độc-nhất của Thượng Đế.

Không có sự thật nào nổi bật hơn điều này trong Cựu-ước. Hơn năm mươi khúc sách thánh dạy rằng Thượng Đế là một, chẳng có ai khác và chẳng có ai sánh được với Ngài.

Nếu Thượng Đế là Thần duy nhất, thì điều răn đầu tiên tất nhiên là con người phải tập trung mọi năng lực mà yêu kính Thượng Đế (PhucDnl 6:4,5, MacMc 12:29-30).

Một Thượng Đế bất phân ly (undevided God) hẳn nhiên đòi hỏi sự tuân-phục, phụng-thờ chuyên nhất (undevided allegiance) của tạo vật Ngài. Ngài không chấp nhận bất cứ ai đòi hưởng vinh dự thiên-thượng của Ngài: “Ta chẳng nhường sự vinh-hiển ta cho đấng nào khác, cũng không nhường sự tôn-trọng ta cho các tượng chạm” (ÊsIs 42:8).

Tôn-giáo nào của con người không dành cho Thượng Đế sự thờ-phượng độc-tôn, là điều gớm ghiếc đối với Thượng Đế, ta không cần phải bỏ công tìm tòi xem có bao nhiêu cái tốt trong đó. Thượng Đế không chấp nhận một chỗ ngồi giữa hội các thần.

Ngài phải là tất cả hoặc không có gì cả.


Cơ-Đốc Giáo Và Thuyết Độc Vị Nhất Thần (Unitarianism) (SaSt 1:26,3:32, ÊsIs 6:8, Mat Mt 3:16, 17, IICôr2Cr 13:14).

Từ những thế kỷ đầu tiên, người tín-đồ Cơ-đốc đã nhấn mạnh giáo-lý Ba Ngôi.

A. H. Strong đã định nghĩa giáo-lý ấy như sau: “Trong bản-thể của Thượng Đế có ba biệt thể vĩnh cửu (three eternal distinctions) bình-đẳng: đó chẳng phải là ba vị trong một, hoặc ba Thượng Đế trong một, cũng chẳng phải Thượng Đế tỏ-mình bằng ba cách. Đây là ba biệt thể thiết yếu (three essential distinction) trong sự hiện hữu của Thượng Đế.”

Trải qua nhiều thế kỷ, những người chủ trương độc-vị nhất thần, thường tấn công giáo-lý Ba Ngôi, cho rằng giáo-lý ấy chủ trương tam-thần hay chỉ là giáo-lý đa thần ngụy trang tinh vi, bởi đó xúc phạm tính cách độc nhất của Thượng Đế.

Dẫu rằng từ ngữ Ba Ngôi không có trong Kinh Thánh, giáo-lý Ba Ngôi phát xuất từ Kinh Thánh. Đó là một sản phẩm mặc-khải mà trí-tuệ con người không tài nào phát minh ra được.

Sỡ dĩ ta tin giáo-lý ấy vì Kinh Thánh đã dạy nó. Đó là một trong những bí ẩn sâu-nhiệm và khó hiểu nhất của lời Thượng Đế. Dẫu giáo-lý Ba Ngôi ở ngoài tầm hiểu biết và giải thích của trí-tuệ con người, nó đã được dạy rõ ràng trong Kinh Thánh.

Về phương diện này, ta không thể đem một cái gì trong thiên nhiên để so sánh với Thượng Đế được. Những thí-dụ thuờng dùng như: vòng tròn chia ba; ánh sáng, nhiệt, và năng lực; ba nốt nhạc hợp thành hòa âm; nước, hơi nước, và nước đá; thân, hồn, thần của con người, tất cả đều không thể làm sáng-tỏ hoàn toàn chân-lý Ba Ngôi được.

Dẫu Cựu-ước không minh thị hẳn như Tân-ước, nó có những điểm suy diễn ta chỉ có thể giải thích được bằng giáo-lý Ba Ngôi. Đại danh từ số nhiều “chúng ta” trong SaSt 1:26, 11:7, ÊsIs 6:8 không thể nói về các tạo vật như người hay thiên-sứ, như vậy phải nói về Thượng Đế.

Các khúc sách nói về Đấng Thiên-Sai (ÊsIs 9:6, MiMk 5:2, ThiTv 45:6, 7) cho thấy Ngài là một với Đức Giê-hô-va mà vẫn khác biệt với Ngài. Vị thiên-sứ của Đức Giê-hô-va cũng được mô-tả tương tự (SaSt 16:9, 13 22:11,16 31:11-13 48:15,16; XuXh 4:2,4,5; CacTl 13:20-22).

Chữ Ê-lô-him, tiếng Do-thái dùng để gọi Thượng Đế, là số nhiều, dầu nó thường đi với động từ số ít.

Tân-ước thì dạy rõ ràng về Thần-tánh của Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Đức Thánh Linh mà vẫn phân biệt cả ba. Chỉ có giáo-lý Ba Ngôi mới kết hợp được những lời dạy rõ ràng trong Tân-ước.

Chỉ cần đối chiếu Kinh Thánh với nhau, ta có thể biết được giáo-lý ấy, dầu không thể hiểu được hoàn toàn. Trong những bài học sau này, chúng ta sẽ thấy Kinh Thánh dạy, chẳng những Chúa Giê-xu và Đức Thánh Linh có những yếu tính của Thượng Đế Đức Chúa Cha, mà còn bình-đẳng với Ngài về quyền lực và vinh-hiển.

Ở đây ta chỉ cần đưa ra một vài dẫn-chứng.

-Đức Chúa Cha là Thượng Đế - RôRm 1:7

-Đức Chúa Con là Thượng Đế - HêbDt 1:8

-Đức Thánh Linh là Thượng Đế - CôngCv 5:3,4

Cả Tân-ước nhìn nhận mỗi ngôi vị trong Ba Ngôi đều là Thượng Đế, và nội dung của nó được đặt trên nền-tảng đó.




Chương 2: THƯỢNG ĐẾ VÔ HẠN

(The Infinitude of God)


Tác...

...-giả Thi-thiên viết “Đức Giê-hô-va là lớn và đáng ngợi khen thay; sự cao cả Ngài không thể dò lường được” (Thi Tv 145:3).

Ngay cả thời đại nguyên tử với bao nhiêu kiến-thức khoa học ngày nay cũng không thể nào thay đổi được câu nói khiêm tốn đó. Kinh Thánh nêu rõ những thuộc-tính của Thượng Đế, nhưng đặc-tính nào của Ngài cũng vượt quá tầm hiểu biết của con người.

Cái gì ở nơi Thượng Đế cũng đều toàn-vẹn và vô-hạn. Trí hiểu biết hữu hạn của con người không tài nào đo lường Thượng Đế được. Con người chỉ có thể đứng kinh ngạc trước sự vĩ đại của Thượng Đế. Nói đến chiều kích này là nói đến sự vô-hạn của Thượng Đế.


THƯỢNG ĐẾ VĨNH HẰNG

(God is Eternal)


Xưng nhận Thượng Đế vĩnh hằng là xác nhận Thượng Đế có sự sống vô hạn.

Chúng ta không thể nào đo được tương lai chưa tới, nhưng chúng ta có thể đem trí tưởng tượng trở về quá-khứ thật xa thẳm để hình dung ra cõi vĩnh cửu. Chúng ta bảo sách Sáng-thế ký là sách của những khởi đầu: khởi đầu cuộc Tạo Hóa, khởi đầu của con người, của các dân-tộc. Nhưng đó chưa hẳn là khởi đầu.

Chúng ta còn có các dân-tộc. Nhưng đó chưa hẳn là khởi đầu. Chúng ta còn có thể lui về thời kỳ tạo dựng các thiên-sứ, những Con Trai của Thượng Đế mà ngay từ buổi bình minh của công cuộc Tạo Hóa, họ đã có mặt rồi (Giop G 38:7).

Nhưng đó cũng không phải là khởi đầu nữa. Chúng ta còn có thể đi vào cõi đời-đời, khi Đấng Tạo Hóa chỉ có một mình, tất cả mọi tạo vật chỉ mới có trong ý nghĩ Ngài. Chúng ta có thể để cho trí tưởng tượng bay tới mãi, nhưng không bao giờ đến chỗ khởi đầu, vì cõi đời-đời không có điểm đầu cũng không có điểm cuối.


Con người có quá khứ, hiện tại, và tương lai, nhưng Thượng Đế chỉ có hiện tại. Quá-khứ và tương lai đều là “bây giờ” đối với Ngài. Loài người còn lại mãi mãi (everlasting) nhưng Thượng Đế là vĩnh cửu (eternal) (PhucDnl 32:40, ThiTv 90:2, ITim1Tm 6:16).

Trong KhKh 1:8 Chúa xưng mình là An-pha và Ô-mê-ga là chữ đầu và chữ cuối trong bộ mẫu tự Hy-lạp, nguyên ngữ của Kinh Thánh Tân-ước. Như vậy Thượng Đế vừa là khởi đầu, vừa là cuối cùng của thời gian. Cõi đời tôi không có đầu và cuối, còn thời gian thì có cả hai. Trong Thượng Đế, thời gian bị nuốt chửng trong cõi đời-đời và không một ai hiểu được cõi vĩnh cửu ngoài Thượng Đế vĩnh hằng.


THƯỢNG ĐẾ BẤT BIẾN

(God is Immutable)


Thượng Đế không thay đổi và chẳng ai thay đổi được. Thượng Đế vượt lên trên mọi nguyên nhân đổi thay và tình huống đổi thay. Tính bất-biến này liên-hệ với tính vô-hạn của Ngài trong thời gian cũng như không gian. Thế giới này luôn đổi thay, “song Chúa không hề biến cải” (ThiTv 102:26, 27).


Thượng Đế không thay đổi bản chất (Nature) của Ngài. Thượng Đế không thể tăng thêm hay giảm đi. Ngài không nằm trong quy luật phát triển hay tiến hóa nào cả. Tri-thức và quyền-năng của Ngài chẳng có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn. Ngài chẳng có thể khôn-ngoan hơn hay thánh thiện hơn. Ngài chẳng có thể công-chính hay nhân-từ hơn trước kia hoặc sau này. Ngài vượt lên trên mọi quy luật chi phối thời gian và biến dịch, vì lời Ngài chính là quy luật.


Thượng Đế chẳng thể thay đổi quan-hệ giữa Ngài với con người. Ta có thể trông chờ gì ở một kẻ nay thế này mai thế khác? Chính vì lòng nhân-từ của Chúa không thay đổi nên dân Y-sơ-ra-ên bội đạo mới còn hy-vọng. “Vì ta là Đức Giê-hô-va, ta không hề thay đổi, bởi cớ đó các ngươi là con trai Gia-cốp, chẳng bị diệt vong” (MaMl 3:6).


Thượng Đế Chẳng Đổi Lời Ngài (ThiTv 119:160, MatMt 5:18, GiGa 10:35)

Con người thất hứa là chuyện thường tình thế-gian. Tại sao giữa bạn bè bà con với nhau mà mỗi một giao dịch thương mãi nào cũng làm đầy đủ giấy tờ hợp pháp? Đó chẳng phải vì người ta cho rằng nói miệng dễ bỏ qua hay sao?

Chẳng phải vì con người là tạo vật hay thay đổi sao? Có bao nhiêu lần chúng ta bị chính những kẻ mình tin cậy lừa gạt chúng ta? Con người còn là một tạo vật bị hạn chế nữa. Lắm khi họ là nạn nhân của hoàn-cảnh, khiến họ không thể nào hoàn thành bổn-phận của mình dù họ rất mong muốn. Nói chung, chuyện con người làm sai lời chẳng những là khả hữu mà còn là chuyện đương nhiên nữa.

Trái lại, lời Thượng Đế chẳng bao giờ thay đổi.


Thượng Đế Chẳng Đổi Ý (will) (ISa1Sm 15:11, Giê Gr 26:13)

Nếu Thượng Đế không thể đổi ý, vậy thì sao có nơi trong Kinh Thánh nói Ngài “ăn-năn”?

Thái độ ăn-năn này của Thượng Đế không có nghĩa là thay đổi bản-tính và mục đích. Ngài lúc nào cũng ghét tội-lỗi và yêu thương tội-nhân. Dù là trước hay sau khi tội-nhân ăn-năn thì thái-độ Ngài cũng như một.

Về căn-bản, thái-độ Ngài không thay đổi, nhưng Ngài có thể thay đổi cách đối phó với sự thay đổi nơi con người.

Ví-dụ, thái-độ Thượng Đế đối với dân Y-sơ-ra-ên không thay đổi, Ngài ghét tội-lỗi họ, và vì họ miệt mài trong tội nên họ phải hứng chịu những trừng phạt của tội-lỗi. Nhưng Thượng Đế vẫn yêu-thương họ, nên khi họ ăn-năn và lìa bỏ tội-lỗi thì cách Thượng Đế đối-xử với họ cũng do đó mà đổi thay.

Như Strong có nói: “Tính bất biến của Thượng Đế không phải như một cục đá không có biến động gì bên trong, mà như một cột thủy ngân, lên xuống theo sự thay đổi của nhiệt độ khí quyển xung quanh”.


THƯỢNG ĐẾ TOÀN-TRI

(God is Ommiscient)


Thượng Đế toàn-tri có nghĩa là sự hiểu biết của Ngài thật vô-hạn. Sự hiểu biết của Thượng Đế vừa chính xác, tỉ mỉ, chắc chắn, lại vừa bao quát, rộng khắp. Những gì Ngài nói và làm đều tuyệt đối đúng và chân-thật. Ngài không thể nào lầm lẫn cũng như không thể nào thất bại. Chúng ta chỉ có thể ngạc nhiên sững sờ kêu lên như Phao-lô: “Ôi sâu nhiệm thay là sự giàu có, khôn-ngoan và thông biết của Đức Chúa Trời” (RôRm 11:33).


• Thượng Đế Biết Hết Quá-Khứ (CôngCv 15:18, IGi1Ga 3:20)

-Con người là vật hay quên. Dẫu có giấy bút sách vở để ghi lại ký ức, họ vẫn không nhớ được bao nhiêu quá-khứ. Họ có thể đào bới, khai quật những di tích cổ của các dân-tộc để tìm hiểu chút ít về quá-khứ. Nhưng những hiểu biết của họ thật thiếu sót biết bao và họ cũng quên đi nhanh biết bao!


Thượng Đế Biết Hết Hiện Tại.


Thượng Đế Biết Rõ Thiên Nhiên (SaSt 15:5, ThiTv 147:4,5, ÊsIs 40:26)

Thượng Đế bảo Áp-ra-ham hãy đếm các ngôi sao để hình dung ra số hậu tự đông đúc của ông. Nhưng vào thời Áp-ra-ham, chưa có nhà khoa học nào dám đem số ngôi sao so với cát biển.

Hipparchus, một nhà thiên-văn xưa, đếm được 1.022, và Ptolemy ghi được 1.026. Lời Giê-rê-mi nói rằng các đạo binh trên trời không thể đếm được (GiêGr 33:22) có thể bị cho là phản khoa học, nếu người ta không nhờ các dụng cụ tối tân tìm ra vô số ngôi sao không thể nào tưởng tượng nổi. Dù cho con người ngày nay vẫn chưa đếm nổi số ngôi sao, Thượng Đế chẳng những biết số mà còn biết tên từng ngôi sao một.


Thượng Đế Biết Rõ Con Người

(1) Đường lối loài người (Thi Tv 119:168,139:3, GiopG 24:23, ChCn 5:21, HêbDt 4:13)

(2) Lời nói con người (ThiTv 19:141, 139:4)

(3) Tư tưởng con người (ThiTv 139:2, LuLc 11:17, ICôr1Cr 3:20)

(4) Ước muốn của con người (CôngCv 1:24, RôRm 8:27)


Thượng Đế Biết Hết Tương Lai (ÊsIs 41:21-23,42:9, 46:10, 48:5-7)

Không gì có thể chứng-tỏ Kinh Thánh là lời Thượng Đế cho bằng những mặc khải trong đó cho thấy Thượng Đế biết trước mọi sự. Hơn một phần tư Kinh Thánh là lời tiên-tri.

Chúng ta chỉ cần đọc những gì Thượng Đế nói về kết cuôc của các đô thị Ba-by-lôn và Ni-ni-ve, rồi bước qua những di tích hoang tàn của những nơi đã từng là kinh thành tráng-lệ đó, chúng ta mới thấy được sự biết trước của Thượng Đế.

Không có vị tiên-tri nào cho ta cái nhìn rõ ràng về sự biết trước của Thượng Đế cho bằng Ê-sai. Các vị tiên-tri khác đều có nói Giu-đa sẽ bị các đạo quân hùng mạnh của Ba-by-lôn khuất phục, nhưng chỉ có Ê-sai là thách đố các thần của Ba-by-lôn, nếu thật là thần thì hãy nói trước những việc sẽ xảy ra.

Ê-sai đã tiên-báo tỉ mỉ về Si-ru, người chinh phục đế quốc Ba-by-lôn (ÊsIs 45:1-4, 46:11). Lời tiên-tri ấy đã nói ra từ thời đế quốc A-si-ri đang hưng thịnh, chớ chưa phải là đế quốc Ba-by-lôn, và nói về nước Ba-tư lúc ấy hãy còn là một tiểu nhược quốc. Tên vua Si-ru đã dược nhắc đến từ 180 năm trước khi ông ra đời.

Chúa Giê-xu nhiều lần nói trước Ngài sẽ chết trên thập-tự giá và sẽ sống lại (Mat Mt 16:21,17:22,23, 20:17-19, 26:1-2).

Như vậy chẳng những Ngài chứng-tỏ Ngài có thể biết trước tương lai, mà còn là Thượng Đế nữa. Những lời tiên báo đó chẳng những khó có thể xảy ra mà còn là chuyện không thể có đến nổi các môn-đồ nghe cũng không hiểu (Mac Mc 8:31-33,9:31,32,10:33).

Chẳng có một việc gì xảy ra trong những ngàn năm tới mà tâm-trí vô-hạn của Thượng Đế không biết đến.


Thượng Đế Sử Dụng Đúng Đắn Tri-Thức Của Ngài (ÊsIs 40:13,14)

Với tất cả kiến-thức, nhưng con người lại thiếu sự khôn-ngoan cần thiết để sử dụng đúng đắn tri-thức đó. Con người luôn luôn lầm lỗi, nhưng Thượng Đế không như vậy; sự khôn-ngoan của Ngài là vô-hạn. Chỉ có Thượng Đế là nằm ngoài vòng sai lầm. Ngài chẳng bao giờ thí-nghiệm; Ngài chẳng bao giờ thay đổi kế hoạch. Thời gian chẳng dạy Ngài được điều gì. Những gì Ngài đã làm thì chẳng cần phải tu chỉnh, vì sự khôn-ngoan của Ngài bảo đảm mọi sự đều hoàn hảo.


Sự Khôn-Ngoan Của Thượng Đế Trong Công Cuộc Sáng Tạo (ChCn 3:19, ÊsIs 40:12)

Một nhạc cụ trước hết đòi hỏi tài khéo của người thợ chế tạo, rồi kỹ thuật người nghệ sĩ lên dây đàn, cuối cùng là tài hoa của người nhạc sĩ diễn-tả cái đẹp của âm thanh.

Cũng vậy, trong công cuộc sáng tạo chúng ta thấy sự khôn-ngoan của Thượng Đế trước hết là trong sự tạo hình vũ trụ, rồi trong sự vận hành hài hòa của nó, và cuối cùng là tính cách ích dụng kỳ diệu của muôn loài dưới sự tể trị khôn-ngoan của Ngài. Sự khôn-ngoan của công cuộc Tạo Hóa bày-tỏ trong:


-Tính Đa Dạng (ThiTv 104:24, ICôr1Cr 15:41)

Người ta không bao giờ học hết môn động vật học hay thực vật học, vì có vô số các chủng loại sinh vật cũng như cây cỏ. Có rất nhiều thứ giống nhau, nhưng cũng có những khác biệt lạ lùng ngay giữa hai lá cùng mọc trên một cây. Cả các ngôi sao cũng vậy, “Vinh-quang của ngôi sao nầy khác vinh-quang của ngôi sao khác.”


-Vẻ Đẹp và Sự Hài Hòa (TrGv 3:11)

Hoa huệ ngoài đồng còn đẹp đẽ thơm tho hơn đóa hoa nhân tạo tinh xảo nhất. Các tinh tú vận hành rất hài hòa nhịp nhàng, nhờ vậy thái dương hệ mới được an toàn.


-Tính Ích Dụng (ChCn 30:24-28)

Sự khôn-ngoan thiên-thượng chẳng những tạo dựng mà còn ban cho tạo vật một chủ đích. Có con nhện trên tường, nhưng nó chăng lưới để bắt giống ruồi dơ bẩn. Có loài vật nhỏ xíu dưới biển, nhưng lại làm thành cả hải đảo. Ngôi sao trên trời có thể chỉ đường cho những chiếc tàu lớn trên đại dương.


Sự Khôn-Ngoan Của Thượng Đế Trong Công Cuộc Bảo Toàn (ThiTv 104:13,14,27,28).

Điều này tỏ-ra trong nhiều cách, lấy một ví-dụ là trái đất. Chúng ta biết bề mặt trái đất được bao phủ bởi một lớp khí quyển thật mỏng, đó là cái vỏ làm bằng nhiều thứ khí để duy trì sự sống. Ít ai để ý tới ích lợi của khí quyển vì nó quá dư dật, nhưng nó chính là trung gian dẫn truyền ánh sáng và âm thanh, làm trung hòa nhiệt độ, và là phương tiện bảo vệ trái đất.

-Dẫn truyền ánh sáng.

Nếu không có lớp không khí bao quanh, bầu trời sẽ tối đen khi ánh mặt trời không chiếu thẳng vào. Khi mặt trời mọc, chỗ ta ở sẽ từ tối đen liền trở nên sáng rực, và trời tối liền khi mặt trời lặn; như vậy sẽ không có trời bình minh hoặc hoàng hôn.

-Dẫn truyền Âm thanh.

Nếu không có không khí, chúng ta không thể nào tạo ra hay nghe được một âm thanh nào. Tất cả các âm thanh đều do không khí rung chuyển tạo thành và truyền đi.

-Điều nhiệt.

Lớp khí quyển giống như cái mền giữ trái đất khỏi sức nóng của mặt trời. Nếu không có nó, ban ngày sẽ quá nóng và ban đêm quá lạnh khó có sự sống tồn tại trên đất. Nhờ có khí quyển, con người mới tạo ra lửa và nhiệt được.

-Phương tiện bảo vệ.

Nếu không có khí quyển, hàng ngàn vẩn thạch bay trong không gian bị trái đất hút vào sẽ rơi xuống mặt đất với tốc độ kinh hồn. Khi quyển giống như tấm đệm cản bớt tốc độ và làm giảm độ rơi khủng khiếp của chúng.


Sự Khôn-Ngoan Của Thượng Đế Trong Công Cuộc Cứu-Chuộc

* Chúa Cứu Thế, Sự Khôn-Ngoan Của Thượng Đế (IICôr2Cr 1:24)

Thượng Đế chọn máng cỏ tồi tàn thay vì cung điện nguy nga làm nơi ra đời của con Ngài. Theo tiêu-chuẩn trần gian thì chẳng còn ai nghèo nàn hơn, thấp hèn hơn. Như vậy, chẳng ai có thể nói Cơ-đốc giáo chỉ dành cho kẻ thông-thái, người giàu có hay quý phái. Thượng Đế làm thế nào để cho mọi tội-nhân đều có thể được cứu, và khiến cho sự cứu-rỗi không tùy thuộc vào sự khôn-ngoan mà vào đức-tin của họ.

* Hội Thánh, Sự Khôn-Ngoan Của Thượng Đế (ICôr1Cr 1:21)

Chúa chọn 12 người thất học đi truyền Tin-Lành cho thế giới, để chứng-tỏ rằng không phải sự khôn-ngoan của con người mà là sự khôn-ngoan của Tin-Lành chinh phục được lòng người. Thượng Đế chọn những kẻ yếu đuối truyền-giảng Tin-Lành, và sứ-điệp “ngu dại” của họ đã chinh phục được các lục địa. Họ quảng bá Tin Lành, và Chúa - không phải các sứ-đồ - được vinh-hiển.


THƯỢNG ĐẾ TOÀN NĂNG

(God is Omnipotent)


Quyền-năng Thượng Đế là vô hạn và không chấp bất kỳ một hạn chế hay ràng buộc nào chỉ trừ ra khi Ngài muốn. Đối với Ngài, nghĩ là làm; quyết định là thi hành. Ngài phán điều gì thì có ngay điều ấy. Vì Ngài là toàn-vẹn nên không phải thí-nghiệm, mà thực hiện công tác một lần đủ cả không cần phải tu chỉnh.


Quyền-Năng Thượng Đế Trong Công Cuộc Sáng Tạo (ThiTv 33:4-9, ÊsIs 40:12-17)

Chương đầu của sách Sáng-thế ký không phải là chỗ duy nhất trong Kinh Thánh để lại công cuộc sáng tạo. Sự khôn-ngoan và quyền của Thượng Đế trong việc kiến tạo trái đất đuợc nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Tác-giả Thi-thiên nói rằng các từng trời bởi lời Đức Chúa Trời tạo thành, và các đạo binh ngôi sao thành hình do “hơi thở của miệng Ngài”.

Khi chúng ta cảm thấy thế giới càng ngày càng lớn hơn và con người càng ngày càng vĩ đại hơn, thì nên đọc Ê-sai 40. Chú ý đặc biệt các câu 12-17 tán dương quyền-năng của Thượng Đế.


Quyền-Năng Của Thượng Đế Trong Công Cuộc Bảo Hộ (GiêGr 32:17-24)

Giê-rê-mi đang ở tù khi ông dâng lên lời cầu-nguyện này. Lúc đó vào khoảng cuối cuộc bao vây thành Giê-ru-sa-lem của vua Nê-bu-cát-nết-sa. Vì vị tiên-tri nhất quyết rằng cuối cùng thành sẽ bị chiếm nên ông bị bỏ tù.

Trong cảnh ngộ đó, đức-tin ông nơi Đấng Toàn Năng vẫn không lay chuyển. Ông đến với Thượng Đế với niềm tin rằng chẳng có gì là quá khó đối với Đấng dựng nên trời và đất (c. 17). Điều đáng ghi là khi ông cầu-nguyện xong thì Thượng Đế trả lời ông bằng thứ ngôn ngữ toàn-năng của Ngài (c. 27).

Giê-rê-mi tán dương quyền-năng Thượng Đế trong cách Ngài đối-xử với dân Y-sơ-ra-ên (c. 20, 24).


Quyền-Năng Thượng Đế Trên Thiên Nhiên (ThiTv 107:25-29, Mat Mt 8:24-27)

Thi-thiên 107 mô tả một trận bão giữa biển. Những lượn sóng lớn đe dọa nhận chìm chiếc tàu xuống đáy biển. Các thủy thủ lảo đão trên sàn tàu như “người say rượu”. Nhưng khi người ta kêu cầu Thượng Đế can thiệp thì sóng êm bão lặng ngay.

Khi Thượng Đế can thiệp vào định-luật thiên nhiên thì đó gọi là phép-lạ. Phép-lạ không phải chỉ xảy ra trong thời của Chúa Giê-xu, mà ngay trong thời nay, nhiều người cũng làm-chứng Thượng Đế nhậm lời cầu-nguyện khiến trời đổ mưa, cơn cháy rừng bị đổi hướng.


Quyền Năng Thượng Đế Trên Con Người (XuXh 5:2, 12:30,31, ĐaDn 4:30-37)

Nhiều bậc quân vuơng lỗi lạc trên thế giới thách đố Thượng Đế toàn-năng nhưng rồi mới biết rằng ngôi vị và quyền hành của mình do Thượng Đế ban cho (ChCn 8:15, 16).

Khi đại đế Napoléon kéo đại quân Âu châu sang chinh phục nước Nga, có người đã nhắc nhở ông rằng “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”.

Vị hoàng đế đã chinh phục cả Âu châu trả lời, “Mưu sự tại ta mà thành sự cũng tại ta”. Đội quân tinh nhuệ của ông đã từng bách chiến bách thắng, nhưng Thượng Đế đã dùng những hoa tuyết nhỏ bé xíu để chôn vùi tên tuổi họ. Thượng Đế cũng đã dùng một cơn bão để triệt hạ Hạm Đội Vô địch của vua Philíp II nước Tây Ban Nha.


Quyền-Năng Của Thượng Đế Trên Sa-tan (GiopG 1:10,12,2:6, LuLc 22:31,32)

Sa-tan, vua của các thế lực mờ tối, được gọi là thần của đời này (IICôr 2Cr 4:4), vì vậy nó chế ngự toàn bộ thế-gian. Nhưng Sa-tan không có quyền gì trên con cái Thượng Đế chỉ trừ khi Ngài cho phép. Trường hợp Gióp và Phi-e-rơ cho ta thấy rõ điều đó.

Thượng Đế có quyền hạn chế quyền lực của Sa-tan cũng như Ngài có thể chận đứng những lượn sóng dữ của đại dương. Một ngày kia Thượng Đế sẽ thống-trị trời đất, và ma quỷ sẽ bị “ném vào hồ lửa và diêm sinh, nơi con thú và tiên-tri giả đang ở, chúng sẽ đau đớn ngày đêm cho đến đời-đời” (KhKh 20:10).


Quyền Năng Thượng Đế Trong Công Cuộc Cứu-Chuộc

Thượng Đế đã thay đổi nhanh chóng cuộc đời Sau-lơ, kẻ tàn hại Hội thánh và người cai ngục thành Phi-líp lúc ông sắp sửa tự tử. Hàng ngàn người ngày nay có thể làm-chứng tương tợ về quyền-năng giải cứu của Thượng Đế.

Một trong những câu chuyện tỏ-rõ quyền-năng Thượng Đế là chuyện của bộ lạc da đỏ Aucas hung dữ đã được biến đổi nhờ ảnh hưởng của Tin Lành sau cái chết tuẫn-đạo của 5 nhà truyền-giáo ở Ecuador. Câu chuyện được kể lại trong cuốn “The Savage My Kinsman” (Người Man Rợ Bà Con Của Tôi của Elizabeth Elliot).


Quyền-Năng Thượng Đế Trong Sự Định Đoạt (God’s power to will)

Tính toàn năng của Thượng Đế tùy thuộc vào ý định của Ngài. Chính cá tính toàn hảo kiểm soát năng lực vô biên của Ngài mới là lớn hơn sự toàn-năng của Ngài. Tính đạo đức toàn-vẹn của Thượng Đế khiến Ngài không thể lạm dụng sự toàn-năng của Ngài. Như vậy ý muốn của Thượng Đế tùy thuộc bản-tính của Ngài.

-Thượng Đế là khôn-ngoan vô hạn nên không thể muốn một điều ngu dại.

-Thượng Đế là công-bình vô hạn nên không thể muốn một điều bất công.

-Thượng Đế là tốt lành vô hạn nên không thể muốn một điều xấu xa.

-Thượng Đế là tinh sạch vô hạn nên không thể muốn một điều bất-khiết.


THƯỢNG ĐẾ TOÀN TẠI

(God is Omnipresent)


Tính toàn-tại của Thượng Đế đi liền với tính toàn-năng và toàn-tri của Ngài.

“Có ai ẩn núp nơi bí mật mà ta không thấy được chăng? Há chẳng phải ta đầy dẫy trời đất đó sao? Đức Giê-hô-va phán vậy?” (GiêGr 23:24).

Thượng Đế thấy được mọi sự có nghĩa là Ngài luôn luôn hiện diện. Những người phiếm thần cho rằng Thượng Đế ở trong mọi sự, nhưng Kinh Thánh dạy rằng Đấng Tạo Hóa ở ngoài tạo vật của Ngài.

Các nhà thiên-văn không đo được biên giới của vũ trụ cũng vậy, con người không thể nào hiểu được thuộc tính này của Thượng Đế.

Thi-thiên 139 nói về sự toàn-tri của Thượng Đế (c.1-6), sự toàn-năng của Thượng Đế (c.13-19), và đặc biệt là sự toàn-tại của Thượng Đế (c.7-12). Những câu này và nhiều nơi khác trong Kinh Thánh dạy rõ rằng Thượng Đế có mặt và hành động ở khắp mọi nơi.




Chương 3: THƯỢNG ĐẾ THÁNH-KHIẾT, CHÍNH-TRỰC VÀ CÔNG-BÌNH

(The Holiness, Righteousness, and Justice of God)


Nếu...

...chúng ta tin quyết mình có thể tìm được một người trên thế-gian không hề lỗi-lầm, chắc chúng ta sẽ tìm đủ mọi cách để gặp được người đó. Nhưng chúng ta biết không thể nào có một người như vậy trên đời. Diogenes, một nhà triết-học Hy-lạp rất nổi tiếng về chuyện ông cầm đèn đi rảo khắp đường phố kinh đô Athens trong ban ngày để một tìm người lương thiện. Ông không bao giờ tìm được một người như vậy. Thật ra, chính Diogenes cũng đã bị lưu đày biệt xứ vị tội làm bạc giả.

Có thể có nhiều người không hề muốn làm một điều sai trái nào, nhưng không hề có một người nào mà ta có thể nói là “không thể làm sai”.

Chúng ta đã thấy Thượng Đế không thể sai lầm trong tri-thức, vì Ngài là toàn-tri. Ngài cũng không thể sai lầm về đạo đức, vì Ngài là thánh-khiết. Ngài cũng không thể quyết định sai lầm về lỗi-lầm của người khác vì ngài là công-bình.

“Đấng phán-xét toàn thế-gian há chẳng làm điều đúng sao?” Đó là câu hỏi của Áp-ra-ham khi ông nghe Chúa sẽ hủy diệt Sô-đôm (SaSt 18:25). Vâng, Đấng phán-xét toàn thế-gian chỉ làm điều đúng, vì chúng ta sẽ thấy rằng bản-tính của Ngài là thánh-khiết không chỗ trách được, và sự công-bình của Ngài khiến cho sự phán-xét của Ngài tuyệt đối không thể sai lầm.


SỰ THÁNH-KHIẾT CỦA THƯỢNG ĐẾ

(God’s Holiness)


Thánh-khiết có nghĩa không phải chỉ có một vài đức tính mà có đủ tất cả. Ngay cả những người tốt hơn hết, có một số đức tính nổi bật, cũng có những mặt tệ hại khác.

Socrates là một nhà hiền-triết gương mẫu, nhưng lại bạc đãi vợ con, Aristotle và Plato là những giáo-sư dạy điều khôn-ngoan, nhưng lại dung chấp thói luông tuồng của người đồng hương. Cato nổi tiếng là chân-thật, nhưng lại hung dữ với nô-lệ, Người mạnh nhất cũng có những điểm yếu khiến không thể sắp họ vào hạng thánh-khiết hoàn-toàn.

Vương niệm tối tôn thuộc về Thượng Đế, không phải vì ta phong cho Ngài, nhưng vì tự Ngài xứng đáng như vậy.


Kinh Thánh Dạy Rõ Về Sự Thánh-Khiết Của Thượng Đế (Gios Gs 24:19, ISa1Sm 2:2, GiopG 36:23, ThiTv 99:9, ÊsIs 5:16, Êxe Ed 39:7, KhKh 4:8).


* Trong Cựu-Ước

-Cựu-ước nhấn mạnh sự thánh-khiết của Thượng Đế. Thượng Đế được gọi là Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên 30 lần trong sách Ê-sai và nhiều lần trong Giê-rê-mi và Ê-xê-chi-ên. Trái với những dân-tộc lân cận thờ thần-tượng, tuyển dân của Thượng Đế luôn luôn được nhắc nhở về 2 đặc-tính lớn của Thượng Đế.

(1) Ngài là Thượng Đế duy nhất.

(2) Ngài là Thượng Đế thánh-khiết.


Khi luật-pháp đã không thể khiến dân Y-sơ-ra-ên thấy được sự thánh-khiết của Thượng Đế, Ngài đã sai các vị tiên-tri đến để nhấn mạnh cho dân Y-sơ-ra-ên thấy điều quan-trọng hàng đầu này. Đối với các vị tiên-tri, Thượng Đế là Đấng thánh-khiết tuyệt đối, mắt Ngài tinh sạch không thể nhìn điều ác, Ngài nhanh chóng sửa phạt tội-lỗi.


* Trong Tân-Ước

Cả Ba Ngôi đều mang thuộc tánh thánh-khiết

-Đức Chúa Cha là Đấng Thánh (GiGa 17:11)

-Đức Chúa Con là Đấng Thánh (CôngCv 3:4)

-Đức Chúa Thánh Linh là Đấng Thánh (13:52).

Thượng Đế thánh-khiết là chân-lý căn-bản của Kinh Thánh cả Cựu-ước lẫn Tân-ước, của Do-thái giáo lẫn Cơ-đốc giáo.


Mười Điều Răn Dạy Về Sự Thánh-Khiết Của Thượng Đế (XuXh 19:10-13, 20:7-11)

Mệnh-lệnh nghiêm khắc cấm dân Y-sơ-ra-ên đến gần núi Si-nai khi Thượng Đế đích thân truyền dạy Mười Điều Răn, là để cho dân Y-sơ-ra-ên ý thức được sự thánh-khiết của Ngài.

-Điều răn thứ nhất và thứ nhì nhấn mạnh tính cách độc nhất vô nhị của Thượng Đế, còn điều răn thứ ba và thứ tư nhấn mạnh sự thánh-khiết của Ngài. Cái gì thuộc về Thượng Đế - danh Ngài và ngày của Ngài - đều phải được tôn-thánh. Nên nhớ rằng những điều răn này cũng quan-trọng như những điều liên-quan đến giết người và trộm cắp.


Luật Nghi Lễ (Ceremonial Law) Dạy Về Sự Thánh-Khiết Của Thượng Đế (XuXh 39:30, LeLv 11:44, 45, 19:2)

Chủ-đề của sách Lê-vi là “thánh-khiết”, một chữ được dùng đến 87 lần trong 20 đoạn. Chủ ý của nó là, “Các ngươi phải nên thánh, vì Ta, Giê-hô-va và Đức Chúa Trời ngươi, là thánh.”

Sách này cùng với các sách của Ngũ Kinh Môi-se nêu rõ sự thánh-khiết của Thượng Đế.


Kiểu Đền tạm cũng trình bày sự thánh-khiết của Thượng Đế. Thượng Đế hiện diện trong một gian phòng đặc biệt gọi là Nơi Chí Thánh, tại đây không một ai được phép vào ngoại trừ vị thượng-tế, và ông cũng chỉ được phép vào đó mỗi năm một lần (XuXh 26:33, LêLv 16:2).


Các Thị-Tượng Cá Nhân (Personal Visions) Cho Thấy Thượng Đế Là Thánh-Khiết

Trong các thị-tượng Thượng Đế mặc-khải cho con người trong Kinh Thánh, đặc-điểm gây ấn-tượng mạnh mẽ hơn hết cho họ là sự thánh-khiết của Ngài.

-Thị-tượng của Môi-se (XuXh 33:18-23)

Vinh-quang mà Thượng Đế cho Môi-se được nhìn thấy thật ra là vinh-quang của sự thánh-khiết Ngài.

-Thị-tượng của Ê-sai (ÊsIs 6:1-5)

Ê-sai là một người thánh thiện bậc nhất của cả Y-sơ-ra-ên, thế mà khi ông nhìn thấy vinh-quang của Thượng Đế, ông nhận biết mình và dân-tộc mình là tội-lỗi.

-Thị-tượng của Giăng (KhKh 4:8-11)

Mỗi khi được nhìn và mô-tả thiên-đàng là ông cho thấy hình ảnh vinh-quang của Thượng Đế, và những kẻ ở nơi đó tung hô sự thánh-khiết của Ngài.


Sự Trừng Phạt Những Kẻ Phạm Thượng Dạy Cho Ta Sự Thánh-Khiết Của Thượng Đế.

-Na-đáp và A-bi-hu (LêLv 10:1-3)

Na-đáp và A-bi-hu phạm-tội khinh lờn. Họ hạ thấp giá-trị thánh chức tế-lễ khi dâng lửa lạ trước mặt Chúa. Dầu là con A-rôn, những con người khinh mạn đó đã phải lãnh cái chết thình lình và lạ lùng bởi lửa từ trời.

-Cô-rê, Đa-than, A-bi-ram (DânDs 16:4-12, 31-33)

Ba người này cũng hạ thấp giá-trị thánh chức tế-lễ khi họ nổi loạn chống lại quyền bính của Môi-se và A-rôn. Môi-se khiêm-nhường đề nghị hãy để Chúa định đọat giữa một bên là Cô-rê và đồng bọn và bên kia là Môi-se và A-rôn.

Chúng ta hãy để ý lời cảnh cáo của Môi-se: “Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã biệt các ngươi riêng ra với hội chúng Y-sơ-ra-ên, và khiến các ngươi lại gần Ngài làm việc trong đền tạm Đức Giê-hô-va, đặng hầu việc trước mặt hội chúng, việc ấy há là nhỏ mọn sao?” (16:9).

Lập tức Thượng Đế trừng phạt họ và đất hả miệng nuốt trọn Cô-rê và đồng đảng của ông ta.

-Ô-xia (IISu 2Sb 26:16, 21)

Ô-xia, vua Giu-đa, tiếm dụng chức tế-lễ và cả gan đốt hương cho Chúa. Trong khi ông làm công việc bị cấm ấy, các thầy-tế và hội chúng Y-sơ-ra-ên thấy mặt ông nổi phung và ông đã mang bịnh ấy cho đến khi qua đời.


Sự Dự Bị Một Đấng Cứu-Chuộc Cho Ta Thấy Sự Thánh-Khiết Của Thượng Đế (ChCn 15:9,26, ÊsIs 59:1, 2, RôRm 5:8,11)

Tội-lỗi là điều gớm ghê trước ánh sáng thánh-khiết của Thượng Đế, vì vậy tội-nhân phải bị phân cách khỏi Thượng Đế. Trong cõi đạo đức, Thượng Đế và tội-nhân đứng ở hai cực đối nghịch.

Làm sao Thượng Đế có thể trừng phạt tội-lỗi mà vẫn hòa giải được với tội-nhân? Câu trả lời là Chúa Giê-xu, Đấng Cứu-chuộc đến từ Thượng Đế.

Thập-tự giá cho thấy Thượng Đế ưa sự thánh-khiết đến chừng nào. Thập-tự giá biểu dương sự thánh-khiết của Thượng Đế cũng như Tình yêu thương của Ngài. Ta không thể nào thấy nỗi tình yêu của Thượng Đế nếu không nhìn trong ánh sáng của cơn phẩn nộ Ngài đối với tội-lỗi.

Đấng Cứu Thế không phải chỉ chết thế tội-lỗi chúng ta, mà Ngài còn ban cho chúng ta sự chính-trực là điều vừa lòng Thượng Đế.


SỰ CÔNG-CHÍNH CỦA THƯỢNG ĐẾ

(God’s Righteousness)


Tính thánh-khiết của Thượng Đế.

Thánh-Khiết là bản-tính của Thượng Đế, nó được biểu lộ nơi sự công-chính trong mối giao tiếp với con người. Những điểm sau đây chứng-tỏ điều ấy.


Thượng Đế Ghét Tội-Lỗi (Thi Tv 5:4, 11 ChCn 6:16, HaKb 1:13)

Không ai là không biết sự có mặt và quyền lực của tội-lỗi. Tội-lỗi là nguyên nhân tối hậu của mọi bệnh tật và đau khổ (SaSt 3:17-19). Có những người cho rằng không có thiên-đàng. Họ không muốn biết có gì tốt hơn ngoài trái đất này.

Nhưng có gì sung sướng trong thế giới đầy bệnh hoạn, đau buồn, tội-lỗi này? Cái thế giới mà nhiều người cho là thiên-đàng trên đất này, chẳng có gì làm thỏa mãn được linh-hồn con người. Càng thấy nó nhiều càng ít muốn nghĩ tới nó. Càng đi qua nhiều, càng muốn thoát ra khỏi.

Mỗi năm có hàng ngàn người tự-tử để trốn thoát nó.

Chẳng những xung quanh ta nhan nhản những bằng chứng và hậu quả của tội-lỗi, mà ngay trong bản thân ta cũng đầy ắp tội-lỗi (RôRm 3:23). Đếm cát trên bãi biển còn dễ hơn đếm tất cả những lỗi-lầm của một đời người. Thượng Đế không bao giờ ưng chịu tội-lỗi dù là tội nhỏ hơn hết cũng vậy (Gia Gc 2:10).


Bản tính Thượng Đế là gớm ghê tội-lỗi đến cùng cực. Ngài thật tinh-khiết không thể bị điều ác cám-dỗ. Nếu có sự khác biệt trong các thuộc-tính của Thượng Đế, tính thánh-khiết của Ngài vẫn đứng hàng đầu. Một khi nhận chân được sự thánh-khiết đạo đức tối hảo của Thượng Đế, ta sẽ thấy ngay sự gớm ghiếc của tội-lỗi. Danh Ngài là thánh, Ngài ngự trên nơi cao và thánh với những người thánh sạch.


Thượng Đế Dự Bị Một Nơi Ở Thánh-Khiết (Thi Tv 47:8, 5:4, ÊsIs 63:15, KhKh 4:1-11)

Thượng Đế ngự ở đâu? Chúng ta đã biết Thượng Đế là toàn-tại, nhưng trong nơi ngự trị vô biên của Ngài có một chỗ có thể gọi là nơi ở của Ngài. Kinh Thánh cho biết có 3 tầng trời:

-thứ nhất là bầu khí quyển bao quanh trái đất bao gồm không những thái-dương hệ, mà cả những ngôi sao, thiên-hà, tinh hệ làm thành vũ-trụ bao la.

-Nhưng trên hết và bên ngoài những cái đó, là một nơi đặc biệt dành cho sự hiện diện của Thượng Đế. Chương bốn sách Khải-huyền có lẽ là khúc sách mô-tả linh động hơn hết quang cảnh Thượng Đế uy nghi ngự trên ngai được thần dân tôn-thờ.

Giác quan hữu hạn của chúng ta không thể nào hiểu hết cảnh tượng vinh-quang và uy nghiêm này. Tại tổng hành dinh của công cuộc Tạo Hóa này, Thượng Đế ngự trong nơi ở thánh-khiết.

Những người không muốn sống thánh-khiết trên đất không thể hy vọng được vào thiên-đàng. Dầu cho được nhận vào đó, họ cũng cảm thấy không thoải mái. Cũng như Whitefield, nhà truyền-đạo lừng danh từng nói: “Ở thiên-đàng, người bất-khiết sẽ rất khổ sở nên họ sẽ xin Thượng Đế cho họ chạy xuống hỏa-ngục để trú thân ”. Chỉ những kẻ “đói khát sự chính-trực” mới được “no đủ” hạnh phúc và thánh-khiết của thiên-đàng.


THƯỢNG ĐẾ CÔNG-BÌNH

(God’s Justice)


Tính công-bình là hệ quả của tính thánh-khiết của Thượng Đế. Nếu cho rằng chính-trực là sự yêu thích thánh-khiết của Thượng Đế thì công-bình là sự phán-xét của Thượng Đế đối với tội-lỗi.


Duy Trì Sự Chính-Trực (Upholding Righteousness) (PhucDnl 10:17,18, ThiTv 89:14, 97:2)

Vì Thượng Đế yêu thích chính-trực nên thiên-đàng phải có công-bình tuyệt đối và phán-xét không sai lầm. Ngài biết rõ điều nào phải điều nào trái nên không thể nào thiên-vị. Ngài không trọng riêng người nào, không bị hối lộ gây ảnh hưởng để làm một điều gì khác ngoài sự công-bình tuyệt đối.


Bảo Vệ Người Công-Chính (SaSt 18:24-26, ThiTv 96:11-13)

Để nâng cao sự công-chính, Thượng Đế phải bảo vệ người công-chính, là những người được Thượng Đế kể là công-chính do tin đến Chúa Cứu Thế Giê-xu (RôRm 10:10: ICôr1Cr 1:30, Phi Pl 3:9) ở dưới đất cũng như trên trời.

-Lót (SaSt 18:19, IIPhi 2Pr 2:7, 8)

Lời cầu-nguyện tha thiết của Áp-ra-ham cho cháu mình là Lót được nhậm, không phải là thành Sô-đôm gian ác khỏi bị hủy diệt mà Lót đã được cứu thoát cách kỳ diệu.

-Đa-vít (ISa1Sm 17:37)

Dầu Đa-vít đấu sức với sư tử, gấu, hay tên khổng lồ Gô-li-át, mạng sống ông đều được bảo toàn vì Thượng Đế phù hộ ông.

-Đa-ni-ên (ĐaDn 6:22).

Nơi an toàn nhất cho Đa-ni-ên trong khắp xứ Ba-by-lôn là hang sư tử, vì nơi đó ông được bảo-đảm có sự phù hộ của Thượng Đế, như Ngài đã bảo-toàn Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-nê-gô trong lò lửa hực (3:28).

Phi-e-rơ (CôngCv 12:11)

-Trong ngục, Phi-e-rơ ngủ thật bình thản, dầu ông bị xích với 4 tên lính gác, và đã bị kết án đem ra xử-tử vào ngày hôm sau. Mạng sống ông được bảo-toàn cho đến khi ông hoàn tất công tác.

-Phao-lô (CôngCv 27:21-25)

Mạng sống của Phao-lô bị đe dọa liên miên trong thời gian này. Bốn mươi người Do-thái thề không ăn không uống cho đến khi giết được vị sứ-đồ can trường. Chính quyền La-mã cứu và bảo vệ ông, nhưng cũng phải khoanh tay trước cơn bão khủng khiếp đe dọa nhận chìm chiếc tàu luôn với mọi người trong đó xuống đáy biển. Thoát được cơn bão, tính mạng ông bị đe dọa vì con rắn độc quấn chặt vào tay ông. Nhưng Thượng Đế cần ông lại La-mã nên Ngài hứa quyết phù hộ ông cho đến khi ông tới thành ấy.


Thượng Đế chẳng những bảo vệ những cá nhân chính trực, mà Ngài cũng bảo vệ các dân-tộc ngay lành. Ngài đã nhiều lần bảo vệ tuyển dân Ngài là Y-sơ-ra-ên. Cũng vậy, Ngài đã bảo vệ Hội Thánh Ngài, “Các cửa âm-phủ chẳng thắng được Hội đó” (MatMt 16:18).


Ban Thưởng Cho Người Công-Chính (ThiTv 11:4, 5, 7, MatMt 5:6, 13:43, RôRm 14:10, ICôr1Cr 3:12-15, IICôr 2Cr 5:10, IITim2Tm 4:8)

Kinh Thánh nói rằng Chúa thử-thách sự ngay lành của con người để cho thấy có chân-thật không. Những người tin yêu điều chính-trực và ghét sự gian tà thật là sung sướng, vì họ sẽ được Thượng Đế thưởng, cho vào nước công-chính của Ngài.

Thượng Đế cũng hứa ban vương miện công-chính cho những ai vui mừng mong-đợi sự hiện đến của vị Chánh Án Công-Chính để thực thi công-lý trên đất. Hiện nay chúng ta không được thưởng hết, nhưng trước ngai phán xét của Chúa, chúng ta sẽ nhận được phần thưởng cho những điều lành mà chúng ta đã làm, không phải để tự tôn-vinh mình mà để tôn-vinh Chúa. Tính công-chính của Thượng Đế bảo-đảm cho điều đó.


Trừng Phạt Kẻ Ác (ThiTv 7:1-17,11:6, MatMt 25:46)

-Thượng Đế phẫn nộ là điều có thật. Thượng Đế là thánh-khiết tuyệt đối, nên Ngài cũng tuyệt đối ghét tội-lỗi. Trước một hành động bỉ ổi, chúng ta giận phừng lên, điều ấy cho ta thấy phần nào mức-độ ghét tội-lỗi của Thượng Đế.

Nhưng cơn phẫn nộ của Thượng Đế trước một tội-lỗi nhỏ hơn hết vẫn vô cùng lớn hơn cơn giận của chúng ta trước một tội ác tày đình.

Thượng Đế phải trừng phạt tội-lỗi, nếu không Ngài không còn là Thượng Đế. Nếu Ngài dung túng tội-lỗi, không trừng phạt tội-nhân, ắt Ngài phải thoái vị khỏi ngai thánh khiết công-bình của Ngài. Một vị vua nhân từ buộc phải trừng phạt những kẻ có tội. Ngay những kẻ ác cũng phải công nhận việc trừng phạt họ là công-bình.

-Ta thấy điều đó trong trường hợp vua Pha-ra-ôn (XuXh 9:27). Sau khi bị tai vạ mưa đá, vua nhìn nhận “Lần này trẫm đã phạm tội: Đức Giê-hô-va là công bình, trẫm cùng dân trẫm là kẻ phạm tội.”

Pha-ra-ôn không ăn-năn, về sau ông chết trong lúc ra mặt chống nghịch Thượng Đế. Nhưng ở đây ông nhìn nhận Thượng Đế trừng phạt ông là hoàn toàn công-bình. Mọi tội nhân cuối cùng rồi đều sẽ như vậy. Mọi miệng đều sẽ ngậm lại và cả thế-gian đều sẽ chịu tội trước mặt Thượng Đế (RôRm 3:19).




Chương 4: THƯỢNG ĐẾ CHÂN-THẬT, THÀNH-TÍN VÀ YÊU-THƯƠNG

(The Truthfulness, Faithfulness, and Love of God)


Chúng...

...ta đã học hỏi nhiều về sự thánh-khiết và công-bình của Thượng Đế để biết rằng tội-nhân không thể nào ở chung với Thượng Đế thánh-khiết và không thể nào thoát khỏi án phạt của Thượng Đế công-bình.

Nhưng ngoài đức tính thánh-khiết công-bình của Thượng Đế, có những trường hợp khẳng định cho chúng ta biết rằng người lành sẽ được thưởng và người ác sẽ bị phạt.

Làm sao ta biết rằng người lành sẽ được thưởng và người ác sẽ bị phạt? Làm sao ta biết có thiên-đàng, hỏa-ngục? Như chúng ta sẽ thấy sau đây, các đức tính chân-thật, thành-tín, yêu-thương của Thượng Đế chứng-tỏ rằng những nơi đó có thật.


SỰ CHÂN-THẬT CỦA THƯỢNG ĐẾ

(The Truthulness of God)


Những khúc Kinh Thánh sau đây bày-tỏ đức tính chân-thật của Thượng Đế: DânDs 23:19, PhucDnl 32:4, ISa1Sm 15:29, IISa 2Sm 7:28, ThiTv 146:6, TitTt 1:2.


Bản Chất Của Thượng Đế (The Nature of God)

Thượng Đế không vướng vào những khiếm khuyết thường khiến con người giả dối. Thượng Đế không bao giờ lừa dối hay giả ngụy vì:

-Thượng Đế Rất Khôn Sáng Không Thể Dối Trá Được (Too wise to be untruthful)

Chỉ có kẻ dại mới nói dối. Hắn nói dối chỉ vì thấy cái lợi trước mắt, nhưng sớm muộn gì hắn cũng sẽ học được rằng “chân-thật là phương sách hay nhất.”

Chân-thật lúc đầu có thể bị thiệt, nhưng cuối cùng nó sẽ chiến thắng. Bạn có cho rằng Thượng Đế sẽ chọn phương sách của kẻ ngu đốt không? Đấng biết hết mọi sự lại chẳng đủ khôn-ngoan để chọn sự thật sao?


-Thượng Đế Rất Quyền-Năng Không Thể Dối Trá Được (Too powerful to be untruthful)

Có người nói rằng con người nói dối “Cho qua cơn ngặt nghèo”, nhưng Thượng Đế có bao giờ bị ngặt nghèo đâu? Con người cần nói dối để được một cái lợi nhãn tiền, nhưng Thượng Đế có bao giờ cần điều gì? Ngài phán: “Mọi thú rừng đều thuộc về ta, các bầy súc vật trên ngàn núi cũng vậy. Ta biết các chim của núi; mọi vật sống động trong đồng ruộng thuộc về ta. Nếu ta đói, ta chẳng nói cho ngươi hay; vì thế-gian và muôn vật ở trong, đều thuộc về ta” (ThiTv 50:10-12).

Con người lừa dối để được danh dự và tiếng khen, nhưng Thượng Đế chẳng cần những vật thọ tạo vô ơn tôn-vinh Ngài. Tâm hồn chính trực của Ngài rất ghét tiếng khen của kẻ bất-khiết. Vinh-quang của Ngài đã quá lớn không cần phải hạ mình nói dối để được con người tôn-kính trọng vọng.


Phẩm Tính Của Thượng Đế (The Character of God)

-Thượng Đế Rất Thánh-Khiết Không Thể Dối Trá Được (Too Holy to be untruthful)

Không phải vì con người dối trá nên anh ta là tội-nhân, nhưng vì anh ta là tội-nhân nên anh ta mới dối trá. Khuynh hướng dối trá là do từ bản chất hư hoại của anh ta.

Nhưng Thượng Đế không phải là con người nên Ngài không thể nói dối. Đức thánh-khiết tuyệt đối khiến Ngài không thể nghĩ đến dối trá được.

-Thượng Đế Quá Cao Cả Ngài Không Thể Dối Trá Được (Too Honorable to be Untruthful) (HêbDt 6:13-18)

Khúc Kinh Thánh trên cho ta biết về 2 điều bất biến khiến Thượng Đế không thể nói dối được.

(a) Điều đầu tiên là danh dự của Ngài. Thượng Đế xem danh dự của Ngài là quý giá hơn bất cứ điều gì. Lời Ngài phải được thành tựu với bất kỳ giá nào, bởi vì bản tính thánh-khiết của Ngài buộc phải như vậy.

(b) Thứ hai là lời thề của Ngài. Ở đây cho thấy Chúa dùng lời thề để xác nhận lời hứa của Ngài với Áp-ra-ham.


SỰ THÀNH TÍN CỦA THƯỢNG ĐẾ

(The Faithfulness of God)


Đức tính chân-thật của Thượng Đế biểu lộ trong đức tính thành-tín. Ngay từ khởi thủy lịch-sử loài người, ma quỉ đã xuyên tạc để con người nghĩ rằng Thượng Đế là không chân-thật. Kinh Thánh đã nói gì? (PhucDnl 7:9, IVua 1V 8:56, ThiTv 36:5, CaAc 3:23, ICo1Cr 1:9, ITês1Tx 5:24, HeDt 10:23).


Thượng Đế Thành-Tín Trong Lời Hứa

-Lời-hứa với A-đam (SaSt 3:15, GaGl 4:4)

Thượng Đế cảnh cáo A-đam rằng nếu ông ăn trái cấm chắc chắn sẽ chết. Sa-tan tuyên bố rằng lời đó là giả dối; A-đam không chết đâu. Nhưng thật sự ông đã chết phần tâm-linh ngay khi ông phạm-tội, và điều đó chứng-tỏ Thượng Đế là chân-thật và Sa-tan là giả dối.

Tuy nhiên, khi A-đam ăn-năn, Thượng Đế hứa ban một Đấng Giải Cứu đến chà đạp đầu con rắn, và lời Ngài đã được thực hiện khi Chúa Cứu Thế ra đời.

-Lời-hứa với Áp-ra-ham (SaSt 15:13, XuXh 2:24)

Thượng Đế hứa với Áp-ra-ham rằng Ngài sẽ làm cho ông nên một dân lớn và ban cho dòng dõi ông giải đất mà ông đang cư ngụ.

Vậy mà suốt trong 400 năm, con cháu ông phải mang thân phận của người khách lạ và phải chịu kềm kẹp hiếp đáp, đến cuối cùng Thượng Đế giải cứu họ khỏi bàn tay của chủ nhân ông của họ. Thượng Đế nghe tiếng than van của dân Y-sơ-ra-ên ở Ai-cập và nhớ lại giao-ước Ngài với Áp-ra-ham.

-Lời-hứa với Môi-se (XuXh 3:12, 21:4, 12, 33:14)

Thượng Đế hứa với Môi-se rằng Ngài sẽ ở với Môi-se, dạy ông những điều phải nói, khiến dân Y-sơ-ra-ên được lòng người Ai-cập, và cho họ vào xứ Ca-na-an. Trong bài diễn văn từ giã, Môi-se đã liệt kê một danh sách dài những lời-hứa Thượng Đế đã hứa với dân Ngài và thực hiện cho họ (PhuDnl 26:7-9).

-Lời-hứa với Giô-suê (GiosGs 1:1-5, 23:14)

Thượng Đế hứa với Giô-suê như Ngài đã hứa với Môi-se. Đối với nhà quân sự tài ba này, Thượng Đế đã thành-tín đến nỗi trong thông-điệp cuối cùng ông tuyên-bố rằng “Trong các lời lành mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời các người đã phán về các ngươi, chẳng có một lời nào sai hết, thảy đều ứng nghiệm cho các ngươi; thật chẳng có lời nào sai hết.”

-Lời-hứa với Đa-vít (IISa2Sm 7:7-16)

Thượng Đế hứa rằng con của Đa-vít là Sa-lô-môn sẽ xây đền thờ. Trong lễ khánh thành công trình kiến trúc đồ sộ đó, vị vua khôn-ngoan lỗi lạc tuyên bố rằng trong những lời lành mà Thượng Đế cậy tay Môi-se, tôi-tớ Ngài phán hứa, không có lời nào là không thành (IVua 1V 8:56).


Thượng Đế Thành-Tín Trong Sự Phán-Xét

Lịch-sử ghi lại cho thấy Thượng Đế không bao giờ quên giữ lời Ngài cảnh cáo là sẽ đoán phạt tội-lỗi. Bất cứ lời cảnh cáo nào không được để tai nghe đến, sẽ luôn luôn có trừng phạt tiếp theo.

-Lời cảnh cáo người thời trước Cơn Hồng Thủy (SaSt 6:11-13, LuLc 17:26, 27, IIPhi 2Pr 2:5)

Cơn tai ương cuốn cả nhân loại đi, chỉ trừ một gia đình sống sót, chứng-tỏ rằng con số đông không ảnh hưởng gì đến sự phán-xét của Thượng Đế. Thế giới vô-tín bị tiêu diệt như lời Ngài đã phán.

Cái mống (cầu vồng) mà Thượng Đế dùng làm dấu chỉ cho lời Ngài hứa sẽ không tiêu diệt đất bằng nước lụt nữa, cũng chứng-tỏ rằng Thượng Đế không thể nói dối.

Từ đó đến giờ vẫn có những cơn lụt lớn ở nhiều nơi, nhưng không có cơn lụt nào bao trùm cả thế giới như thời Nô-ê.

-Lời cảnh cáo thành Sô-đôm (SaSt 18:20,21, LuLc 17:28,29, IIPhi 2Pr 2:6-8)

Lót là một nhà truyền-giáo thầm lặng ở thành phố Sô-đôm. Gương sống của ông là một lời cảnh cáo cho sự gian ác của thành phố đó, nhưng ngay cả gia đình ông cũng không tin Thượng Đế sẽ tiêu diệt Sô-đôm (SaSt 19:12-14). Nếu có mười người công-chính trong Sô-đôm, Thượng Đế ắt đã chừa Sô-đôm lại như lời Ngài đã hứa với Áp-ra-ham (18:32). Nhưng vì không có đến số đó nên Ngài chỉ cứu gia đình Lót bởi ơn thương-xót của Ngài (19:16).

-Lời cảnh cáo Pha-ra-ôn (XuXh 5:1-3, ThiTv 105:26-36)

Pha-ra-ôn là một ông vua thế lực và kiêu-căng của một dân-tộc hùng cường nhất vào thời cổ. Ông cần gì phải để ý đến Giê-hô-va, một vị thần của một bộ lạc nhỏ? Nhưng Pha-ra-ôn đã học được bài học rằng Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên là Thượng Đế của cả trời và đất, Đấng thi hành sự phán-xét theo những chỉ thị của Ngài.

Hãy nghiên-cứu về 10 tai vạ với những lời cảnh cáo trước, ta sẽ thấy Thượng Đế giữ lời Ngài thật chính xác thế nào.

-Lời cảnh cáo dân Y-sơ-ra-ên (PhucDnl 7:6-11, GieGr 25:4-11)

Thượng Đế đã cảnh cáo nhiều lần cho tuyển dân Ngài, qua các nhà tiên-tri trung-tín: “dậy sớm và nói” rằng họ sẽ mất tự-do và đất đai, nếu họ không ăn-năn tội-lỗi mà quay về cùng Chúa. Dầu Y-sơ-ra-ên là “báu vật” của Ngài, là kẻ yêu dấu bởi đức-tin của tổ-phụ họ, họ vẫn bị Ngài trừng phạt.

-Lời cảnh cáo Ni-ni-ve và Ba-by-lôn.

Hai vị tiên-tri Na-hum và Ha-ba-cúc đã viết đặc biệt về những tai họa sẽ đổ xuống trên những thành phố vĩ đại tráng lệ này của thời cổ. Ngay lúc đó họ đang trên đỉnh cao của cường thịnh, sự đổ nát là chuyện quá xa vời đối với họ.

Nhưng khi dạo qua những đống hoang tàn của các thành phố ấy, ta có thể đánh bạo hỏi người khách qua đường: “Đấng đã phán, Ngài sẽ không làm sao? Lời nguyền rủa của Đức Chúa Trời há là lời hồ đồ sao? Lời của Ngài há rơi rớt xuống đất sao?”


TÌNH YÊU CỦA THƯỢNG ĐẾ

(The love of God)


Sứ-đồ Giăng, bởi Thánh Linh cảm-thúc, đã ghi lại cho chúng ta những hiểu biết sâu sắc về Thượng Đế trong những câu thật tóm gọn: Thượng Đế là thần-linh (GiGa 4:24), Thượng Đế là ánh sáng (IGi1Ga 1:5), Thượng Đế là tình yêu (4:8).


Trong tất cả những đặc-tính của bản-thể Thượng Đế, không có điều gì cảm động lòng con người bằng tình yêu. Không lạ gì GiGa 3:16 là câu Kinh Thánh ưa thích của hàng triệu người tin. Câu đó không tán dương sự khôn-ngoan vô biên, quyền-năng tuyệt đối, hay sự thánh-khiết bất biến của Thượng Đế, mà tán dương tình yêu vĩ đại của Ngài.


Thượng Đế Yêu Thương Ai?

-Chúa Con (MatMt 3:17, 17:5, MacMc 1:11,9:7, LuLc 9:35, 20:13, GiGa 5:20,15:19,17:24)

Mỗi lần có tiếng từ trời chứng-rằng Chúa Giê-xu là Đấng Cứu Thế, thì nói rằng Ngài là “Con yêu dấu”. Trong lễ báp-têm, rồi trong buổi hóa hình, chúng ta đều nghe lời thân thiết đó cùng với lời-chứng ưng thuận về Ngài.

Chúa Giê-xu cũng nói đến tình yêu của Cha đối với Ngài, khi Ngài nói chuyện với môn-đệ, cũng như với những người Do-thái vô-tín.

“Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời và đất” nhưng trước đó rất xa Ngài đã yêu Đức Chúa Con. Dĩ nhiên nếu Thượng Đế là vĩnh cửu, bản chất yêu-thương của Ngài đòi hỏi phải có đối tượng đời-đời để yêu-thương. Bởi vậy, Chúa Giê-xu đã thưa với Đức Chúa Cha

“Cha đã yêu Con từ trước buổi sáng tạo thế giới” (GiGa 17:24).

-Con cái Ngài (PhuDnl 7:6-8, GiGa 14:21-23,16:27, 17:23, IGi1Ga 3:1, 2)

Môi-se tuyên-bố rằng Thượng Đế đã chọn Y-sơ-ra-ên trên hết mọi dân-tộc trên thế giới, không phải vì số đông của họ, hay họ có những đặc-điểm đáng khen nào, nhưng vì Ngài yêu họ mà thôi. Hơn nữa, Ngài yêu họ vì trước hết Ngài đã yêu Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp, tổ-phụ họ (PhuDnl 4:37) và giữ giao-ước của Ngài với họ.

Trong lời từ giã, Chúa Giê-xu nói nhiều về tình yêu của Đức Chúa Cha đối với Đức Chúa Con, và đưa lên tuyệt điểm khi Ngài nói rằng “ai yêu ta sẽ được Cha ta yêu lại”.

Ba lần Ngài so sánh tình yêu Đức Chúa Cha đối với các môn đồ với tình yêu Thượng Đế đối với Đức Chúa Con. Nếu chúng ta tin những lời này, thì chúng ta nhận biết rằng chúng ta không ở ngoài lề mà ở ngay bên trong tình yêu Thượng Đế.

Chúa Cứu Thế đứng ngay giữa trung tâm tình yêu Thượng Đế, và Ngài kéo chúng ta đến với Ngài để chúng ta cũng hưởng được tình yêu nồng nàn mà Đức Chúa Cha tuôn dào trên Ngài.

Còn gì vinh dự cho bằng được gọi là con cái Thượng Đế. Khi Cựu-ước nói đến các con trai của Thượng Đế, thường là nói về các thiên-sứ. Nghĩ đến các tạo vật thượng đẳng, vĩnh cửu này, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy họ được gọi là con Thượng Đế.

Điều ngạc nhiên là từ ngữ này cũng được đem áp-dụng cho loài người là tạo vật thấp kém hơn nhiều. Chính vì vậy mà vị sứ-đồ đã kêu lên: “Hãy xem Đức Chúa Cha đã tỏ cho chúng ta sự yêu thương dường nào, mà cho chúng ta được xưng là con cái Đức Chúa Trời” (IGi1Ga 3:1) Con Thượng Đế! Kẻ thừa hưởng vinh-quang! Hoàng tử của Đấng Chí Tôn! Kẻ dự phần trong hạnh phúc vô tận!

-Những Kẻ Thù Nghịch (GiGa 3:16, RôRm 5:8)

“Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian”, sự thật này làm cho Ni-cô-đem kinh ngạc, vì lâu nay ông vẫn nghĩ rằng Đức Chúa Trời chỉ lo cho người Do-thái. Thượng Đế chẳng những yêu thương người Do-thái mà cũng yêu cả Dân Ngoại, không phải một phần thế-gian, mà tất cả mọi người trong đó, bất kể tốt xấu thế nào.

Thượng Đế không vui vì cái chết của kẻ nghịch thù, nhưng “lấy lòng nhịn nhục đối với anh em, không muốn cho một người nào chết mất, song muốn cho mọi người đều ăn năn” (IIPhi 2Pr 3:9).

Sứ-mệnh của Chúa trên trái đất này là đến với tội-nhân loạn nghịch - “Đang khi chúng ta còn là tội nhân, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết” (RôRm 5:8).


Thượng Đế Yêu Thương Như Thế Nào?

(1) Bởi Lòng Tốt Của Ngài (His Goodness) (ThiTv 25:8, 33:5, 34:8, 65:9, 68:19, 119:68, 145:7, MatMt 5:45, CôngCv 14:17)

Nụ cười phúc hậu của Thượng Đế rải lên khắp cõi tạo vật. Bàn tay Thượng Đế nuôi dưỡng mọi loài. Ngài trải cỏ ngọt trên đồi cho bầy súc vật ngon miệng, tuôn đổ dòng suối trên núi cho con nai có nước uống; đổ nhựa thơm trong lòng hoa sứ cho con chim họa mi đến giải khát, và mở tiệc bằng hoa đồng nở rộ cho bầy ong mật.

Thượng Đế tốt lành biết bao đối với con người, mọi nhu cầu cho sự sống đều được cung ứng dồi dào. Con người có tất cả không khí và nước mình cần; ánh áng và sức nóng của mặt trời được cung cấp không cần tiền bạc giá cả. Chúng ta được tạo dựng trong những điều kiện thích hợp cho sự sống và cho hạnh phúc chúng ta.

(2) Bởi Kỷ Luật Của Ngài (His Discipline) (ChCn 3:12, HeDt 12:6-11, KhKh 3:19)

Thượng Đế chăm sóc con cái Ngài bằng cách hướng dẫn, sửa sai họ. Trái đất không phải là nhà vĩnh viễn của chúng ta. Đây chỉ là nơi chuẩn bị chúng ta cho một cõi tương lai. Trẻ em cần có trường học, dù đôi khi rất khó chịu. Kỷ luật đau khổ là điều tốt cho con người, dù ngay lúc đó nó không có gì đáng vui mà chỉ đáng buồn. Có người nói, “phải chi Thượng Đế nói với tôi rằng Ngài thương tôi”, thì đây Ngài đưa đau đớn, buồn khổ đến cho bạn, là Ngài bảo bạn rằng Ngài yêu bạn.

“Sung sướng thay cho kẻ được Đức Chúa Trời sửa phạt!”

Đây là sự thật chắc chắn: trong tình yêu khôn-ngoan trọn-vẹn của Thượng Đế, Ngài khiến cho mỗi cuộc ngửa nghiêng, mỗi gánh nặng, mỗi nỗi lo buồn, hay nỗi phập phồng bất an, đều vừa với trình-độ chịu đựng của chúng ta. Đó không phải chỉ là Thượng Đế toàn-tri, vô hình, đứng ở xa điều khiển mọi sự để đem ích lợi cho mỗi tạo vât Ngài đã dựng nên, mà Ngài bày-tỏ tình yêu vô hạn, trực tiếp với từng cá nhân một.


(3) Bởi Sự Thương-Xót Ngài (His Mercy) (PhuDnl 4:31, Thi Tv 86:5, 103:8, 17, 18, 145:8, 9, IIPhi 2Pr 3:9)

Thương xót là nhân-từ đối với kẻ khốn cùng - thương hại, từ bi, nhẫn nhục, dịu hiền.

“Người nào tin cậy nơi Đức Giê-hô-va, sự nhơn từ vây phủ người ấy” (ThiTv 32:10).

Hành động tin-cậy của người tin đối với sự bảo vệ của Thượng Đế cũng giống như con trẻ đối với cha mẹ. Khi chúng ta quăng mình vào lòng Thượng Đế, thì sự nhơn-từ Ngài bao bọc chúng ta. Sự nhơn-từ ấy vây quanh ta như bức tường lửa, không có sự dữ nào xuyên qua được.

Ta cũng thấy được sự thương-xót của Thượng Đế không những trong việc chữa lành cho người bịnh qua sự cầu-nguyện nếu đúng với ý chỉ của Ngài (Phi Pl 2:27) mà cả trong việc yên-ủi những người thân đang khi họ đau buồn nữa (IICôr2Cr 1:4).

Thượng Đế cũng nhân-từ đối những kẻ bất tuân, bằng cách nhẫn nại chịu đựng. Nếu Ngài đem công-bình đối xử với họ, chắc họ bị tiêu diệt ngay.

“Song vì lòng thương-xót lớn lao của Chúa, Chúa không có tận diệt chúng, cũng không lìa bỏ chúng, vì Chúa vốn là Đức Chúa Trời hay thương-xót và nhơn từ” (NêhNe 9:31).

“Ấy là nhờ sự nhơn-từ Đức Giê-hô-va mà chúng ta chưa tuyệt” (CaAc 3:22).

Tội-nhân đã bị kết án, nhưng Thượng Đế nhân từ còn trù trừ thi hành án phạt. Vì lòng nhân-từ mà Thượng Đế giữ Sô-đôm lại cho đến khi Lót chạy thoát. Vì Ngài nhân từ nên đã cho phép dân Ca-na-an ở trên đất họ 400 năm trước khi ban nó cho Áp-ra-ham.

Thượng Đế chậm thi hành án phạt, dù chính Ngài đã tuyên án đó.


(4) Bởi Hồng Ân Ngài (His Grace) (Thi Tv 84:11, CôngCv 11:20-23, 13:43, RôRm 3:24, 25, ITim1Tm 1:14)

Ân-huệ là ơn bất cầu xứng. Đó là tình yêu ban-bố cho kẻ không đáng được. Cựu-ước thường dùng chữ thương-xót, nhơn-từ, vì ái tâm của Thượng Đế dành ưu tiên cho dân Y-sơ-ra-ên. Nhưng Tân-ước lại nhấn mạnh chữ ơn (hồng-ân, ân-điển, ân-huệ, ân-sủng), vì chữ đó được dùng để diễn tả ân-huệ đối với dân Ngoại bất xứng.

Thượng Đế thương-xót dân Y-sơ-ra-ên vì giao-ước Áp-ra-ham, nhưng Ngài tỏ ơn Ngài cho những kẻ không có quyền đòi gì nơi Ngài. Khi những người Do-thái bất thân xưng quyền làm con cháu Áp-ra-ham, Giăng Báp-tít bảo họ rằng Thượng Đế có thể làm ra con cháu Áp-ra-ham từ những hòn đá (Mat Mt 3:9).

Ngay người Do-thái dưới giao-ước cũ cũng không nhờ việc lành hay quyền lợi giao-ước mà được xưng là công-chính, mà phải nhờ hồng-ân của Thượng Đế bày tỏ trong công cuộc chuộc-tội của Con yêu dấu Ngài (RôRm 3:21-25). Thượng Đế thương-xót dân Y-sơ-ra-ên và ban luật-lệ cho họ, nhưng Chúa Cứu Thế Giê-xu đến đem hồng-ân và chân-lý cho con người (GiGa 1:17).


-Hồng Ân Thượng Đế (IICôr2Cr 8:9, ÊphEp 1:7)

Chúa Giê-xu đem hồng-ân đến bằng cách “dầu Ngài vốn giàu, song vì anh em mà tự mình trở nên nghèo, hầu cho nhờ sự nghèo của Ngài mà anh em trở nên giàu”.

Sự giàu có của Thượng Đế bày-tỏ trong sự tha tội chúng ta và cứu chúng ta bởi huyết Con Ngài.

*Hồng-ân là Thượng Đế tự lột bỏ vinh-quang mình, đến với trái đất như một người khách bị xua đuổi, để bày-tỏ tình yêu Ngài đối với những kẻ loạn nghịch (Phi Pl 2:5-8).

*Hồng-ân là Thượng Đế mặc vào chiếc áo màu điều của Đấng Cứu Chuộc chịu hấp hối để chinh phục tình yêu của con người đầy uế tục, thù ghét.

*Hồng-ân là Thượng Đế tự gạt bỏ vinh-quang mình để Ngài có thể bày-tỏ lòng gớm ghiếc tội-lỗi con người bằng cách hứng chịu những trừng phạt của nó thay vì giáng trên tội-nhân.

*Hồng-ân là Thượng Đế theo đuổi kẻ không tin suốt cả cuộc đời, đưa cho họ xem đôi bàn tay và đôi chân thương tích để chứng-minh cho họ thấy tình yêu Ngài, và kêu nài họ đáp ứng. Hồng-ân là Đấng Chăn chiên Nhân lành đi vào rừng hoang tìm kiếm con chiên lạc loài, trước khi nó cảm thấy nguy cơ hay mong muốn trở về.

-Sự Phong Phú Của Hồng Ân Thượng Đế (ÊphEp 2:4-7)

Sự phong phú của hồng ân Thượng Đế không phải chỉ gồm có sự giáng hạ và cứu-chuộc của Chúa Cứu Thế Giê-xu, mà còn có cả sự sống lại, cất lên, và vinh-quang của những người tin khiêm-nhường.

Hồng-ân thật lạ lùng, diệu kỳ, sẽ là đề-tài cho những lời tán tụng, tra hỏi của bao nhiêu thời đại sau này. Chỉ khi nào chúng ta hiểu được phần nào sự vĩ đại của Thượng Đế - quyền-năng, vinh-hiển và những sở hữu của Ngài - chúng ta mới biết được chút ít về sự giàu có của hồng-ân Ngài khi Ngài cho những tạo vật bất xứng, không ra chi, lại còn loạn nghịch nữa, được đặc ân chia xẻ vinh quang của Ngài (TitTt 3:3-7).

Những bài ca trên trời, những bản thánh ca đời-đời, sẽ là những bài ca của những kẻ được chuộc vui hưởng hồng-ân của Thượng Đế (KhKh 5:9, 10).




Chương 5: CÔNG TRÌNH CỦA THƯỢNG ĐẾ

(The Works of God)


Thi...

-Tv 19:1-14 tuyên bố rằng Thượng Đế là tác-giả của hai quyển sách: Quyển sách thiên nhiên và quyển sách mặc khải tức là lời Thượng Đế.

Quyển sách thiên nhiên là một pho sách đồ sộ gồm nhiều chương như thiên-văn học, địa-chất học, thực-vật học. Muốn hiểu nội dung của bất cứ chương nào trong đó cũng phải bỏ ra nhiều năm nghiên-cứu. Tuy nhiên, ở đây chúng ta chỉ chú trọng học hỏi về công trình sáng tạo của Thượng Đế dưới ánh sáng của Kinh Thánh.

Chúng ta sẽ xét tới 8 đặc-điểm của công cuộc sáng tạo. Những điều đó chẳng những làm-chứng cho tài khéo léo của Đấng Hóa Công mà còn tiêu biểu cho những đặc-tính thiên-thượng của Ngài.


CÔNG TRÌNH SÁNG TẠO CỦA THƯỢNG ĐẾ

(God’s Work of Creation)


“Công trình sáng tạo của Thượng Đế là làm ra mọi sự từ chỗ không không bởi Lời quyền-năng của Ngài trong khoảng thời gian 6 ngày và mọi sự đều tốt lành”.

Phương Pháp Sáng Tạo -- Quyền Năng Của Thượng Đế (ThiTv 33:6-9, 115:3, GiêGr 10:12, 13)

Chín câu trong chương nói về công cuộc sáng tạo mở đầu bằng câu “Đức Chúa Trời phán” (SaSt 1:1-31). Chính quyền-năng vô hạn của Thượng Đế khiến cho lời Ngài được thực hiện tức khắc.

“Ngài phán thì việc liền có” (Thi Tv 33:9), không phải đợi qua triệu triệu năm tiến hóa buồn tẻ. Quyền-năng Thượng Đế tạo nên kết quả tức thì và trọn-vẹn.

Cái sai lầm của thuyết tiến hóa là người ta suy diễn kết luận ra từ những sự-kiện.

Thật ra, những tương đồng giữa con người và những chủng loại khác chỉ minh-chứng là chúng có cùng một Đấng sáng tạo, chớ không phải cùng một thủy tổ; cùng tác-giả chớ không phải cùng xuất xứ.

Những tác phẩm nghệ thuật của cùng một họa-sĩ thường dễ nhận ra vì những điểm tương đồng của chúng. Nhưng cái kỳ diệu của cõi tạo vật là chỗ phức biệt (đa dạng - diversity) chớ không phải ở chỗ giống nhau (resemblance).

Các phát minh của con người cần phải đem cầu-chứng để ngừa ăn cắp kiểu, con người có khuynh hướng sao chép của người khác, nhưng Trí-tuệ Vĩ Đại không bao giờ thiếu kiểu mẫu, mô thức.


Sự Thiết Kế Trong Sáng Tạo - Sự Khôn-Ngoan Của Thượng Đế (GiopG 26:7, 36:26-29, 38:36-41, ThiTv 40:5, 95:5,104:24, ChCn 3:19)

Sách Gióp nói về sự kỳ diệu của trọng lực và sự thăng bằng của các đám mây. Sự sống có tồn tại trên địa cầu được hay không là nhờ bầu khí quyển và nhờ khoảng cách vừa phải của nó đối với mặt trời.

Làm thế nào để duy trì được hai cái đó? Nhờ trọng lực, giống như một dây cáp vô hình đường kính 5.000 dặm và dài 93 triệu dặm. Con người không thể kiếm đâu ra nguyên liệu mà làm nổi sợi dây cỡ đó, mà dầu có làm được cũng không thể có cách gì mà cột nó vào mặt trời. Trí-tuệ thiên thượng đã vẽ ra một hệ-thống kỳ diệu để tưới đất. Ba phần tư mặt đất là nước. Nhưng làm sao giải phóng nó ra khỏi chất muối biển để đem đến những vùng đất khô cằn trên trái đất? Người chưa hề thấy mây và mưa có thể nghĩ ra được cách nào để giải quyết không? Trí óc con người hẳn chẳng bao giờ nghĩ ra nỗi kế hoặch hữu hiệu mà vị Đại Kỹ Sư đã thiết kế.

Rồi làm sao có thể giữ hàng tỉ tỉ tấn nước đã thanh lọc và đưa lên cao để nói khỏi đổ ụp xuống làm hại trái đất? Nếu không bởi sự khôn-ngoan của Thượng Đế đã đặt hệ-thống kiềm hãm các đám mây, các trận mưa, chúng có thể gây biết bao nhiêu tai họa cho con người.


Sự Toàn Hảo Của Tạo Vật Nguyên Thủy (The Perfection of Original Creation) - Tính Thánh-Khiết Của Thượng Đế (SaSt 1:31, PhucDnl 32:4, ÊsIs 45:18, Gie Gr 4:23-26)

Một Thượng Đế toàn hảo sao lại không tạo ra một vũ trụ toàn hảo? Tự Ngài là toàn hảo nên Ngài không thể tạo ra một cái gì bất toàn. Thật vậy, Kinh Thánh nói rằng “Đức Chúa Trời thấy các việc Ngài làm thật rất tốt lành”. Không có chỗ nào trong Kinh Thánh cho thấy có điều gì đến từ bàn tay Thượng Đế là bất toàn. Trái lại, chỗ nào cũng dùng những chữ “tốt lành” và “rất tốt lành” để chỉ sự toàn hảo của công việc Ngài.

Thượng Đế cho Gióp hiểu rằng khi Ngài tạo dựng trái đất, nó rất hoàn hảo đến nỗi “các sao mai đồng hát hòa nhau, các con trai Đức Chúa Trời cất tiếng reo mừng” (Giop G 38:4-7).

Bạn có cho rằng những vị thiên-sứ thông-minh đó reo mừng trước đống hỗn mang mà tiến hóa thuyết cho là hình thái ban đầu của trái đất chăng? Không, đó là một thế giới đẹp đẽ, một cõi tạo vật toàn hảo khiến cho Đấng Tạo Hóa đã cất tiếng khen vào buổi hừng đông của cuộc Tạo Hóa.


Sự Mênh Mông Của Tạo Vật - Tính Bao La Của Thượng Đế (Immensity of God) (Giop G 22:12, ThiTv 8:3, 4,92:5,145:3, KhKh 15:3)

Ê-li-pha bạn của Gióp đã nói cách đây hàng mấy ngàn năm rằng các ngôi sao ở cách xa không thể tưởng tượng được. Mặt trời và các hành tinh thuộc thái-dương hệ chỉ là một phần rất nhỏ trong hàng triệu triệu hệ-thống như vậy làm thành vũ trụ.

Giải Ngân hà ta thấy chỉ là một trong rất nhiều thiên-hà trên khắp vũ-trụ, mỗi thiên-hà có hàng tỉ ngôi sao. Dầu con người đã tiến được những bước khổng lồ vào không gian, họ vẫn công nhận rằng vũ trụ không thể đo lường được và hầu như không thể hiểu được. Không lạ gì một nhà thiên-văn nổi tiếng đã tuyên-bố. “Ta phải hàm ơn thiên-văn học vì nó chỉ cho ta thấy cõi tạo vật mênh mông dường nào, và trái đất mà ta đang ở đây chỉ là một phần nhỏ bé trong công tác của Đấng Tạo Hóa”. Chính Thượng Đế mô-tả cái mênh mông của vũ-trụ mới chuẩn xác hơn cả, vì Ngài là Đấng “lấy gang tay mà đo các từng trời, lấy đấu mà đong bụi đất, dùng cân mà cân núi, dùng thăng bằng mà cân gò. .. ” (ÊsIs 40:12).


Sự Vần Xoay Điều Hòa Của Tạo Vật (Regularity of Creation). Tính Chất Bất Biến Của Thượng Đế (Unchangeableness of Gof) (SaSt 8:22, GiopG 38:37, ThiTv 74:16, 17, TrGv 1:5-7)

Bạn thấy có đêm nào mà không tiếp theo ngày, hay mùa nào không đến trong năm nào? Có nhiều nơi trên đất khi đến mùa mưa, những cơn mưa trở lại đều đặn đến nỗi người ta bảo rằng họ có thể “lấy giờ cho đồng hồ mỗi lần có mưa giông”.

Những người cho rằng khí hậu đã thay đổi vĩnh viễn trong đời họ là họ đã lầm. Nghiên-cứu các thống kê, chúng ta biết rằng các thời kỳ ẩm ướt và khô hạn, lạnh lẽo và nóng bức đến theo chu kỳ. Các hành tinh và vệ tinh xoay vần điều hòa đến nỗi người ta có thể tính nhật, nguyệt thực đúng tới từng phút trong cả hàng ngàn năm, mặt trời có đóm theo chu kỳ, các ngôi sao di chuyển trong quỹ đạo đã vẽ với một tốc đô không suy suyển. Hệ thống quy củ và điều hòa đó nói lên tính bất biến của Thượng Đế.


Sự Đa Dạng Của Tạo Vật (Variety in Creation) Tính Vô Cùng Của Thượng Đế (Exhaustless of God) (Giop G 38:22, ÊsIs 40:26, 28, ICôr1Cr 15:41)

Không có hai hành tinh nào giống nhau và “vinh-quang của ngôi sao này khác với vinh-quang của ngôi sao khác”. Người ta phỏng tính rằng chỉ riêng thiên-hà của chúng ta cũng có đủ ngôi sao để chia cho mỗi người trong cả tỉ người trên trái đất hàng trăm ngôi sao để cai-trị.

Vậy mà những mặt trời khổng lồ đó đều khác nhau về kích thước, khoảng cách, phương hướng, tốc độ và tính chất, đến nỗi Thượng Đế “đặt tên hết thảy, vì sức mạnh Ngài lớn lắm”.

Có bao giờ chúng ta đếm được lá trên cây không? Hoặc phỏng tính nổi số lá trên rừng không? Vậy mà chẳng có hai lá nào hoàn toàn giống nhau, dầu chúng có nhiều điểm tương đồng để có sắp theo loại. Các nhà thảo-mộc học đã tìm ra được hàng trăm ngàn chủng loại cây khác nhau.

Chúng ta ngạc nhiên trước vô số hình thể, kích cỡ và màu sắc khác nhau của các loại cỏ cây, lại càng sửng sốt khi biết rằng ngay cả mỗi cây trong cùng một loại cũng khác biệt nhau. Có chừng 5000 loại cỏ, nhưng không có hai bẹ lá nào trong cùng một loại giống nhau. Có ai đếm nổi hoa tuyết? Tuy nhiên ta có thể lấy vài hoa tuyết quan sát để thấy cái kỳ diệu của thiên nhiên. Hoa tuyết nào cũng có sáu cạnh, nhưng chúng phối hợp đủ kiểu và chẳng có kiểu nào giống kiểu nào.


Sự Hữu Ích Của Tạo Vật (Usefulness) - Tính Nhân Lành (Goodness) Của Thượng Đế (PhucDnl 8:7-9, Giop G 37:17, Mat Mt 5:45, Cong Cv 14:17)

Mỗi một cộng cây đâm lên từ mặt đất là cả một xưởng chế tạo phong phú, mỗi một cộng lá đều có một mục đích đặc biệt.

Có bao giờ chúng ta biết rằng Thượng Đế cung-cấp quá sức dồi dào những nhu-cầu cho sự sống của mọi tạo vật không? Con người không thể nào sống nổi một giờ nếu không có không khí và nước, và khó có thể tồn tại nếu không có hơi nóng và ánh sáng mặt trời. Vậy mà những thứ đó được cung-cấp dư dật không phải trả một đồng xu nào.

Ngay cả khi kinh tế bị đình trệ khủng hoảng, con người cũng không hề thiếu những thứ thiết yếu cho sự sống. Sự khó khăn con người hay gặp phải là thiếu tiền, mà Kinh Thánh thì bảo rằng sự tham tiền là “cội rễ mọi điều ác” (ITim1Tm 6:10).

Thượng Đế ban cho loài người tài nguyên dư dật trong đất đai, mưa móc, ánh nắng. Phần nhiều người không biết món nợ ơn nghĩa mà thiên nhiên đãi mình là lớn chừng nào. Có người tính ra rằng, một người trung bình, sau khi trừ đi phần đóng góp của thiên nhiên và xã hội trong việc tạo ra những tiện ích cho mình, còn lại phần của chính bản thân người ấy đóng góp vào đó chưa đến 2,5%!


Mọi Tạo Vật Đều Có Mục Đích - Vinh-Hiển Của Thượng Đế (ThiTv 19:1, 145:10, ChCn 16:4, ÊsIs 44:24, RôRm 11:36, CôlCl 1:16, KhKh 4:11)

“Muôn vật đều do Ngài và vì Ngài mà được dựng nên”. Những gì chúng ta có đều đến từ Thượng Đế, vì vậy chúng ta nên dùng chúng cho Ngài. Mọi vật chúng ta sử dụng, nên sử dụng với lòng biết ơn Đấng ban chúng cho ta rất rộng rãi, dùng chúng để phục-vụ cho

ta thì phải dùng cách chừng mực, khôn khéo, nhìn chúng trong tương quan với Đấng Tạo Hóa của chúng, xem chúng là công-trình của Ngài.

Quả thật, cứu cánh tối hậu của con người cũng như mọi tạo vật là tôn-vinh Thượng Đế và yêu thích Ngài mãi mãi. Chúng ta không thể yêu thích Thượng Đế nếu chúng ta không nhìn nhận quyền chủ tể và sở hữu của Ngài trên mọi vật. Ngài đã tạo dựng nên chúng để tôn-vinh Ngài cũng như để cho chúng ta vui hưởng.


CÔNG VIỆC QUAN PHÒNG CỦA THƯỢNG ĐẾ (THẦN HỰU ) (God’s Work of Providence)


Những cái nhỏ nhặt quyết định đời sống và cấu thành vận mạng các dân-tộc không phải là những chuyện tình cờ. Chúng chứng-tỏ rằng Thượng Đế đang điều động mọi sự việc trên trần thế. Dầu Thượng Đế rất vĩ đại không thể dò tìm được, và cõi tạo vật của Ngài thật mênh mông không thể nào hiểu hết được, Ngài vẫn để ý đến mọi tạo vật của Ngài và mọi hành động của chúng.

Sự cung-ứng, bảo vệ và hướng dẫn của Thượng Đế đối với tạo vật của Ngài được gọi là công việc quan-phòng hay thần-hựu. Công việc đó minh-chứng sự hiện hữu của Ngài, dạy dỗ về phẩm tính của Ngài, biểu hiện bản-thể của Ngài còn hùng hồn hơn cả công cuộc sáng tạo.

Những kẻ không thấy Thượng Đế trong cõi Tạo Hóa, không thể không nhận biết Ngài khi nhìn vào công việc quan-phòng của Ngài.


Sự Cung Ứng Thần Hựu (Providential Provision) (PhucDnl 8:3, 4, 15, 16, GiopG 38:41, ThiTv 65:9-13, 104:10-16,21,27,28, MacMc 6:26, CongCv 14:17)

Thi-thiên 104 là một bài ca ngợi cung ứng lạ lùng của Thượng Đế cho các tạo vật của Ngài. Nước là một nhu-cầu rất lớn cho các loài vật. Con ngựa có thể chỉ uống nước vẫn sống được 25 ngày, nhưng nếu chỉ có đồ ăn mà không có nước, nó chỉ sống được 5 ngày. Tuy nhiên, Đấng Tạo Hóa đã rải rác các suối, khe, rạch, nước trên các đồi, nơi có những đồng cỏ tốt cho thú vật.

“Nhờ các suối ấy hết thảy loài thú đồng được uống; các lừa rừng giải khát tại đó. Chim trời đều ở bên các suối ấy”. Đôi khi những dòng nước đó khô cạn đi, thì “từ phòng cao mình Ngài tưới các núi” và những cơn mưa tưới mát “làm cho cỏ đâm lên cho súc vật, cây cối để dùng cho loài người: Ngài khiến thực phẩm ra từ đất”. Không phải chỉ có gia súc mà cả “sư tử tơ cũng gầm thét về miếng mồi, và cầu-xin Đức Chúa Trời ban đồ ăn cho chúng nó”.

Cả vô số vật trong biển cũng trông đợi Thượng Đế, để Ngài ban thức ăn cho chúng theo mùa.

Nhiều loài vật không hề dự trữ cho tương lai. Con quạ chẳng gieo chẳng gặt, cũng chẳng có kho vựa gì cả, vậy mà “Đức Chúa Trời nuôi chúng”. Kinh-nghiệm cho chúng biết rằng Thượng Đế cung-ứng cho chúng đầy đủ và đều đặn. Nếu Thượng Đế lo cho chim chóc, thì Ngài còn chăm-sóc chúng ta càng hơn biết bao? Giá-trị con chim sẻ mà Chúa nói trong MatMt 10:29 rất nhỏ nhoi không đáng đem đánh giá.

Hai con chỉ bán được một đồng tiền, còn kém hơn đồng xu bây giờ. Loại chim này không biết hót, không có lông đẹp, chẳng ai thích, có khi còn bị coi như quấy phá, chỉ dùng làm thức ăn cho các loài vật khác. Vậy mà Thượng Đế chăm-sóc chúng.

Chim tước bảo chim sẻ, “Tôi không hiểu tại sao những con người bồn chồn này ưa chạy đôn chạy đáp và lo âu đến thế?”

Chim sẻ bảo chim tước, “Bạn ơi, tôi nghĩ chắc là tại họ không có Cha trên trời chăm sóc cho họ giống như anh và tôi”.

Ta có thể thấy rõ ơn cung-ứng của Thượng Đế cho loài người qua khả năng tái sản xuất của cây cỏ. Các loại ngũ cốc thường nhân gấp sáu chục đến một trăm lần. Một cây hoa hướng dương có thể cho bốn ngàn hột trong một mùa. Nếu đem gieo ba hột bắp, rồi lấy tất cả những hột thâu được đem gieo lại để lấy hột, cứ thế tiếp tục trong 5 năm, ta sẽ có đủ hột để gieo trên khắp mặt đất.

Trong mệnh-lệnh sáng tạo, “đất hãy sinh cây cỏ, cỏ kết hột… tùy theo loại”, Thượng Đế đã trù liệu thật dư dật, không phải chỉ để cây cối sinh sôi tồn tại mãi mãi, mà còn để đáp ứng nhu-cầu của mọi tạo vật khác nữa. Trời không tạo ra nghèo thiếu. Chính con người mới là nguyên nhân.

Thượng Đế không những cung ứng tổng quát cho cả loài người mà Ngài cũng đặc biệt lo cho những nhu cầu của con cái Ngài. Khi tuyển dân ở trong vùng đồng không mông quạnh của bán đảo Si-nai, Thượng Đế đã sắp đặt nhiều phương cách để nuôi sống hai triệu mạng người nam nữ lớn bé.

Bánh ma-na cung cấp mỗi ngày trong 40 năm thỏa mãn được mọi đòi hỏi của tình thế. Vừa ngọt dịu, vừa bổ dưỡng, lại có đủ cho tất cả mọi người. Phép-lạ về đồ ăn và cả về quần áo nữa (PhucDnl 8:3, 4) là bằng-chứng không thể chối cãi về những thuộc-tính mà Kinh Thánh đã cho ta biết về Thượng Đế: sự yêu-thương, quyền-năng cũng như sự thành-tín và quan tâm sâu xa đối với con cái Ngài.

Sự lằm bằm bất mãn của dân Y-sơ-ra-ên dạy cho ta những bài học quý báu. Những người đã từng “ăn đồ ăn của thiên-sứ ” (ThiTv 78:25) mà còn bất mãn, thì với bản chất phản loạn như vậy, dù được ở thiên-đàng họ cũng không thể thấy sung sướng.


Sự Bảo Vệ Thần Hựu (Providential Protection)

Thi-thiên 91 là một bài ca về sự bảo vệ kỳ diệu của Thượng Đế đối với con cái Ngài, là những người “ở nơi kín đáo của Đấng Chí Cao”.

Vì Ngài yêu thương người nên “sai thiên-sứ Ngài bảo gìn giữ người trong các đường lối ngươi”. Chúa Giê-xu có nói đến các thiên-sứ hộ mạng trẻ em (MatMt 18:10), còn những người lớn hơn thì được các vị ấy vây quanh bảo vệ (HêbDt 1:14). Họ được bảo vệ khỏi bị hãm hại và bệnh tật.


Khỏi Bị Hãm Hại (ThiTv 34:7,41:2,91:5,125:2, IIVua 2V 6:14-17, IISu 2Sb 16:9, XaDr 2:5, LuLc 21:18)

Chắc bạn nhớ chuyện Thượng Đế bảo vệ Ê-li-sê khi đạo quân Sy-ri đến vây bắt vị tiên-tri. Vị tiên-tri đã báo cho vua Y-sơ-ra-ên biết kế hoạch chiến tranh của Sy-ri từ nhiều tháng trước.

Bây giờ đạo quân Sy-ri với ngựa, xe và bộ binh kéo đến vây thành phố nơi vị tiên-tri cư ngụ. Sáng hôm sau người đầy tớ của vị tiên-tri rất hãi hùng khi chứng kiến một đạo quân khổng lồ đến vây bắt một mạng người. Anh ta kinh sợ kêu lên: “Thầy ơi, chúng ta làm sao bây giờ.” Nhưng tiên-tri Ê-li-sê bảo “Đừng sợ, vì người ở phía chúng ta đông hơn người phe chúng nó”.

Chuyện không thể có? Đúng, đối với người không biết gì về sự quan-phòng của Thượng Đế. Đầy-tớ của Ê-li-sê là một trong những người đó, vì vậy tiên-tri cầu-nguyện để anh ta được mở mắt để thấy đạo binh trời bao phủ đồi núi, bảo vệ ông khỏi quân đội Sy-ri.

Đó là cách Thượng Đế bảo vệ con cái Ngài.


Khỏi Bệnh Tật (PhucDnl 7:15, XuXh 15:26, ThiTv 91:6, 10)

“Đời sống bạn là gì?” người xưa đã cho ta một câu trả lời rất hay, “chẳng qua như làn hơi nước hiện ra trong chốc lát rồi lại tan ngay”. (Gia Gc 4:14) Hơi thở của bạn là hình ảnh của một vật rất mong manh mà chúng ta gọi là sự sống.

Hoàng đế La-mã Justinian ngã ra chết khi bước vào căn phòng mới sơn; giáo hoàng Adrian bị chết ngạt vì nghẹn hột nho, có người bị một luồng hơi thối làm cho chết. Xung quanh ta có vô số vi trùng gây bệnh chết người. Nhờ có sự quan-phòng của Thượng Đế chúng ta mới không bị lây các chứng bệnh mà chúng ta tiếp xúc. Thượng Đế chăm sóc chúng ta còn hơn cả chúng ta tự chăm-sóc mình, hơn cả bạn bè thân thiết nhất và bác sĩ giỏi nhất của chúng ta. Ngài lo cho chúng ta từng chi tiết nhỏ nhặt, ngay cả “tóc trên đầu” chúng ta cũng đã “đếm cả rồi” (MatMt 10:30).


Khỏi Điều Ác (ThiTv 91:10,121:3-8, ICôr1Cr 10:13)

Thi-thiên 121 là Thi-thiên của người đi đường. Nhiều gia đình đọc Thi-thiên này khi trong nhà có người đi xa. Đây không hẳn là lời cầu-nguyện mà là suy tưởng về sự quan-phòng của Thượng Đế - “Đấng gìn giữ ngươi không hề buồn ngủ”. Ngài chẳng những giữ con cái Ngài khỏi bị hại mà còn khỏi điều ác nữa, “Đức Giêhôva sẽ gìn giữ ngươi khỏi mọi tai họa (điều ác), Ngài sẽ gìn giữ linh hồn ngươi”.

Có bao giờ chúng ta để ý biết bao lần ơn quan phòng của Thượng Đế bảo vệ chúng ta trong những cơn cám-dỗ thử thách? Ơn thiên hựu không để cho sự cám-dỗ đến lúc chúng ta dễ bị nhận chìm. Lúc sự cám-dỗ đến, Thượng Đế lại quan-phòng ban cho chúng ta sức mạnh siêu nhiên để thắng hơn.

Mỗi cơn thử-thách cám-dỗ đều có con đường thoát để chúng ta đủ sức chịu nổi. Nhiều người giữ được phẩm tính nhờ ơn quan-phòng của Thượng Đế. Đó là một mặt nữa của hồng-ân Thượng Đế. Ngài không dẫn chúng ta vào sự cám-dỗ, nhưng giải thoát chúng ta khỏi điều ác.


Sự Hướng Dẫn Thần Hựu (Providential Guidance) (SaSt 45:7, EtEt 4:14, Thi Tv 37:5, 23-25, DaDn 2:21)

ThiTv 37:1-40 được gọi là “Thi-Thiên Đừng Bực Dọc”’ không những vì nó mở đầu bằng chữ “đừng bực dọc”, mà còn vì toàn Thi-thiên đó nói về sự hướng dẫn thần-hựu trên đời sống của những người tin-cậy Ngài.

Nó khuyên dạy người lành nên phó thác đường lối mình cho Chúa, tin-cậy Ngài, thì Ngài sẽ cho được hanh thông. Thượng Đế có một chương trình cho mỗi con cái Ngài, và khi họ đầu-phục Ngài, Ngài sẽ hướng dẫn họ.

Giô-sép hoàn toàn đầu-phục chương trình của Thượng Đế trên đời sống, mặc dù ông không biết Thượng Đế định làm gì với mình. Thượng Đế định đặt Giô-sép làm thủ tướng Ai-cập. Ngài thực hiện điều đó như thế nào?

-Trước tiên là các anh của ông ghét ông. Rồi họ đem ông bỏ xuống hố. Tại sao ông không bị giết? Tại sao Ru-bên chần chờ không cứu ông? Tại vì Thượng Đế đã hoạch định cho người Ích-ma-ên đến đúng lúc để mua ông.

Tại sao người Ích-ma-ên đi Ai-cập? Tại sao họ bán Giô-sép cho Phô-ti-pha? Tại sao Giô-sép bị vu oan và giam vào ngục? Tại sao cả hai viên quan dâng rượu và dâng bánh đều bị giam? Tại sao cả hai đều nằm mộng? Tại sao cả hai đều nhờ Giô-sép đoán mộng? Tại sao quan tửu chánh khi được thả lại quên bẵng Giô-sép? Tại sao Pha-ra-ôn nằm mộng?

Tất cả những sự việc đó là những mắc xích thần-hựu liên kết nhau. Nếu Giô-sép không bị quăng xuống hố, ông đã không thể làm đầy-tớ cho Phô-ti-pha, nếu ông không bị ném vào ngục, ông đã không thể bàn mộng cho quan tửu chánh, và nếu vua Pha-ra-ôn không nằm mộng thì ông chẳng bao giờ được nhắc đến.

Như có người đã nói, “Thượng Đế đưa Giô-sép vào tù để cho Pha-ra-ôn có thể tìm thấy ông khi vua cần đến ông.” Giô-sép đã nhận biết sự hướng dẫn thần-hựu đó khi ông nói với các anh, “Các anh đừng tiếc chi về điều các anh đã bán tôi đặng bị dẫn đến xứ này, vì để giữ gìn mạng sống các anh nên Đức Chúa Trời đã sai tôi đến đây trước các anh.”




Chương 6: TIỀN THÂN VÀ SỰ NHẬP-THỂ CỦA CHÚA CỨU THẾ GIÊ-XU

(The Preexistence and Incarnation of Christ)


Ngày...

...nay ta không còn phải đặt ra câu hỏi, “Chúa Cứu Thế có sống thật hay không?” Ta đã có quá nhiều bằng-chứng lịch-sử về Chúa, nên việc Ngài có sống thật hay không không cần phải đặt nghi vấn nữa.

Chìa khóa của Cơ-đốc giáo là Chúa Giê-xu.

Không hề có ai giữ địa-vị trong bất kỳ tôn-giáo nào giống như địa-vị Chúa Giê-xu giữ trong Cơ-đốc giáo. Ngài vừa là Đấng sáng lập vừa là đối tượng (subject) của Cơ-đốc giáo. Chúa Cứu Thế Giê-xu là nhân vật vĩ đại của mọi thế kỷ. Mọi hệ-thống thần-học và triết-học đều không thể thiếu Ngài. Người ta có thể chống đối Ngài, bác bỏ lời Ngài, nhưng không thể nào không biết đến Ngài.


ĐẤNG CỨU THẾ TIỀN HIỆN HỮU (The Preexistence of Christ)


Câu hỏi đeo đẳng mọi người, nam cũng như nữ, già cũng như trẻ, về “danh trên hết mọi danh” này là “các ngươi nghĩ thế nào về Đấng Cứu Thế, Ngài là con ai?”

Đối với một người thường, cha mẹ người đó không quan-trọng lắm. Cá nhân người đó lên hay xuống là tùy khả năng tài trí của riêng họ. Dầu ta có biết được cha ông của Shakespeare, hay của Lincoln, ta cũng không đánh giá họ khác hơn.

Nhưng với Chúa Giê-xu thì khác, mối liên-hệ của Ngài với trần gian ràng buộc với nguồn gốc Ngài. Ngài không nhìn nhận Giô-sép, người thợ mộc ở Naxarét, là cha Ngài. Cuộc đời vô-tội và ảnh hưởng sâu rộng của cái chết Ngài đều bắt nguồn từ trong tiền thân vô thủy vô chung của Ngài.


Bằng Chứng Về Sự Tiền Hiện Hữu Của Chúa Cứu Thế

-Lời Chứng Cá Nhân

Trong Tân-ước có nhiều nhân-chứng rằng Chúa Cứu Thế đã có từ trước.

* Chính Chúa (GiGa 6:32-38, 41-50)

Trong một lần giảng dạy kéo dài suốt ngày, Chúa đã hóa bánh cho hàng ngàn người đói được ăn no nê. Ngài đã nhân phép-lạ này mà nói cho chúng ta biết Ngài là Bánh sống từ trời xuống.

Khi người Do-thái bác bỏ lời tuyên-bố đó, bảo rằng họ biết cha mẹ Ngài, Ngài đã không tranh cãi với họ mà chỉ nhắc lại rằng Ngài là Bánh hằng sống từ trời, không phải như ma-na xưa chỉ cho họ no trong một lúc thôi.

* Sứ-đồ Phi-e-rơ (IPhi1Pr IPhi1:19,20)

Phi-e-rơ là một môn-đệ nổi bật của Chúa, chẳng những vì ông viết 2 thư tín, góp phần thực hiện sách Tin-lành Mác, mà tên ông còn được nhắc nhiều nhất trong Tân-ước. Ông tin rằng Chúa Cứu Thế đã hiện hữu từ trước, và tuyên-bố rằng Ngài “đã được định sẵn trước buổi sáng tạo thế giới, và đã hiện ra trong cuối các thời kỳ”.

* Giăng Báp-tít (GiGa 1:27-30)

Giăng Báp-tít là một nhà truyền-đạo nổi danh, là một người được nhắc nhở bàn tán nhất thời ông, vì có rất nhiều người “từ Giê-ru-sa-lem, khắp vùng Giu-đê và các vùng quanh sông Giô-đanh” kéo đến nghe ông giảng. Vậy mà ông luôn luôn nói tới một người đến sau ông nhưng lớn hơn ông vô cùng.

Ông tuyên-bố, “Có một người đến sau ta, nhưng trổi hơn ta, vì người có trước ta”. Nói cách khác, ông dùng sự tiền hiện hữu của Chúa để luận rằng: Ngài cao hơn ông.

* Sứ-đồ Giăng (GiGa 1:1, 2, 18, IGi1Ga 1:1, 2)

Trong sách ký thuật về thánh vụ của Chúa, thánh Giăng đã không mở đầu bằng bản gia phả kể từ đời A-đam hay Áp-ra-ham, nhưng ông đã vạch thẳng tới nguyên thủy của mọi khởi đầu.

Sách Sáng-thế mở đầu bằng câu, “Ban đầu Đức Chúa Trời” còn sách Phúc-Âm thứ tư thì mở đầu bằng câu “Ban đầu có Ngôi Lời”. Như vậy, Thượng Đế và Ngôi Lời đã cùng hiện hữu từ thuở ban đầu. Sứ-đồ Giăng cũng đã nhắc lại điều đó trong thư tín của ông. Đối với ông, được thực sự nhìn, nghe và đụng vào Đấng Vĩnh Cửu là một đặc ân phi thường.

* Sứ-đồ Phao-lô (ICôr1Cr 8:6, IITim2Tm 1:9)

Chính là nhờ thị kiến Đấng Cứu Thế sống lại mà vị học-giả Do-thái lỗi lạc này đã quy cải và được biến đổi từ một Sau-lơ tàn bạo bức hại đạo Chúa thành một Phao-lô nhà truyền-giáo anh hùng. Phao-lô cũng nhận thức rõ rằng Đấng Cứu Thế đã có từ trước, vì ông tuyên-bố rằng: “Ngài có trước mọi sự, và muôn vật nhờ Ngài mà tồn tại” (CôlCl 1:17).


-Những Nhân Chứng Tiên-Tri

Chẳng những Tân-ước mà Cựu-ước cũng làm-chứng rằng Đấng Cứu Thế đã có từ trước.

* Đa-vít (ThiTv 40:6-8, HeDt 10:5-10)

Đa-vít đã được phép vạch bức màn thời gian nhìn thấy Chúa bị đóng đinh từ trước một ngàn năm (ThiTv 22:1-31). Nhưng ông cũng được phép nhìn ngược lại cả cõi đời-đời. Ông thấy khung cảnh uy nghiêm của Thượng Đế Ba Ngôi bàn bạc về công cuộc cứu-rỗi nhân loại bị tội-lỗi rủa sả.

Chẳng một của lễ thiêu hay sinh tế nào đủ sức mang sự cứu-rỗi đến cho họ. Chỉ có một hữu thể vô-tội mới được chấp nhận chuộc-tội cho những tạo vật bị hoen ố vì tội lỗi. Vậy thì ai có thể làm được? Đấng Thánh của Thượng Đế, vậy thì ai chịu đi? Chúng ta hãy nghe Thượng Đế Chúa Con nói: “Hỡi Đức Chúa Trời, này, tôi đến để làm theo ý Ngài.”

* Mi-chê (MiMk 5:2)

Các vị tiên-tri chẳng những được cho biết chi tiết về những biến cố xảy ra cho Chúa trên thế gian, nhưng hình như họ cũng nhận biết sự tiền hữu của Ngài.

Nhà tiên-tri Mi-chê khi thông báo rằng đấng Thiên Sai (Mêssiah) của Y-sơ-ra-ên sẽ ra đời tại Bết-lê-hem, ông cũng nói thêm rằng “gốc tích của Ngài vốn từ ngàn xưa, từ trước vô cùng”.


-Đấng Cứu Thế Vĩnh Cửu (Eternity of the Preexistent Christ)

Chẳng những có chứng-cớ đáng tin về sự tiền hiện hữu của Đấng Cứu Thế, mà cũng có bằng-chứng về sự vĩnh cửu của Ngài.


-Đấng Hằng Hữu (The Ever - Present) (GiGa 8:56-58)

Khi Môi-se xin Thượng Đế ban cho một lời để nói lại với dân Y-sơ-ra-ên và cho họ thấy chính Ngài đã sai ông, thì Ngài bảo ông hãy nói với họ là “Ta Là (Đấng Tự hữu ) đã sai đến với các ngươi” (XuXh 3:13, 14). Nói cách khác, Ngài mãi mãi ở trong hiện tại.

Khi người Do-thái lý-luận rằng Chúa chưa đầy năm mươi tuổi nên không thể nào thấy Áp-ra-ham được, thì Ngài đã trả lời một câu đáng nhớ đời, “trước khi có Áp-ra-ham, đã có ta (ta là )”. Khi tác-giả Hê-bê-rơ quả quyết Chúa là thầy tế-lễ thuộc ban Mên-chi-xê-đéc, là có ý nói Ngài “không có ngày đầu cũng không có điểm cuối” (HeDt 7:3)

-Đấng An-pha và Ô-mê-ga (HeDt 13:8, KhKh 1:8, 22:13)

Câu nói ngắn ngủi: “Đấng Cứu Thế (Christ ) Giê-xu hôm qua, ngày nay và cho đến đời đời vẫn y nguyên” mô tả sự tiền hữu và tính bất biến của Chúa chúng ta. Chúa Giê-xu bắt đầu và chấm dứt mặc-khải về Ngài cho tôi-tớ Ngài là Giăng tại đảo Bát-mô bằng một câu, “Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là đầu tiên và cuối cùng”.

Đây là một chứng-cớ rõ ràng về sự hiện hữu vĩnh viễn của Ngài.


Tôn Thờ Đấng Cứu Thế Tiền Hiện Hữu

Trước khi Đấng Cứu Thế trở thành xác thịt ở giữa loài người, Ngài đã hiện hữu trong vinh-hiển và là đối tượng của phụng thờ.

-Phụng-Thờ (HeDt 1:4-6, 13, 14)

Khi Chúa ở trên đất, nhiều người đã thờ lạy Ngài (MatMt 2:11,14:33, 28:9, LuLc 24:52) và điều đáng nhớ là Ngài không bao giờ phản đối. Tuy nhiên, từ rất lâu trước đó, Ngài đã được các thiên-sứ phụng-thờ. “Ngài có danh cao quý hơn họ” vì Ngài là Đức Chúa Con và chiếm chỗ danh dự bên Đức Chúa Cha.

-Vinh-Hiển (GiGa 1:14, 17:5, 24)

Vinh-hiển của Thượng Đế chỉ về sự biểu hiện trọn vẹn sự sống của Thượng Đế, tất cả vẻ đẹp, tinh-anh, thánh-khiết, uy-nghi, quyền-năng và mọi thuộc-tính khác.

Ta có thể nói rằng hình hài con người mà Chúa mang trên trần gian là một cái áo khoác che phủ vinh-hiển mà Chúa vẫn có vào những thời kỳ khác. Buổi hóa hình mà các tác-giả Phúc-Âm đều nhắc tới chính là một thời gian ngắn ngủi Chúa tạm trút bỏ chiếc áo khoát trần thế ấy, và đã được 3 môn-đệ thân tín chứng-kiến (Mat Mt 17:1-5).

Trong lời cầu thay vào cuối thánh vụ của Ngài trên trần thế, Chúa cầu xin cho môn-đệ của Ngài được nhìn thấy vinh-hiển mà Ngài cùng có với Thượng Đế “từ trước khi có thế gian”. Ngài đã lặp lại điều đó và thêm rằng “Cha đã yêu con từ trước khi lập nên thế gian” (GiGa 17:24).


Hoạt Động Của Đấng Cứu Thế Tiền Hiện Hữu (Activities)

Trong thời kỳ tiền hiện hữu, không những Chúa chỉ hiện hữu thôi, mà Ngài còn đồng công hoạt động với Đức Chúa Cha và Đức Thánh Linh.

Đấng Tạo Hóa (Creator) (GiGa 1:3, CoCl 1:16-18, HeDt 1:2, 10, 2:10)

Trong một bài học trước, chúng ta đã thử tìm hiểu công cuộc Tạo Hóa vĩ đại của Thượng Đế. Chúng ta kinh ngạc sững sờ trước sự toàn hảo, đa dạng, và hữu ích vô cùng của vạn vật. Vậy chúng ta cần nên nhớ rằng Chúa Cứu Thế Giê-xu của chúng ta đã tham dự trong kỳ công đó, rằng “mọi vật do Ngài dựng nên, không có Ngài thì chẳng vật gì được dựng nên” (GiGa 1:3). Hoạt động của Ngài chẳng những chỉ trong vũ trụ hữu hình mà còn gồm cả những quyền bính, những ngôi vị vô hình (CoCl 1:16), là thế giới kỳ bí mà mắt trần chúng ta không thể nhìn thấy được. Hơn nữa, những kỳ công đó không phải chỉ làm nên bởi Ngài mà còn cho Ngài nữa (CoCl 1:16, HeDt 2:10).

Đấng Kiểm Soát (Controller) (CoCl 1:17, HeDt 1:3)

Chúng ta đã học về sự cung ứng, bảo vệ, và hướng dẫn thần hựu mà các tạo vật của Thượng Đế được hưởng. Chúng ta được an ủi vì biết chắc rằng Thượng Đế kiểm soát chẳng những sự vận hành của các thiên thể, mà còn cả vận mệnh của các dân tộc nữa. Nhưng công tác cai quản, duy trì vũ trụ vạn vật, cả loài người và thiên sứ, không phải chỉ do Đức Chúa Cha, mà có cả Đức Chúa Con nữa. Chúa Giê-xu đã minh chứng điều đó qua những phép lạ Ngài đã làm trên đất, cả sóng gió quỉ ma đều phải phục tùng Ngài.


ĐẤNG CỨU THẾ NHẬP THỂ (The Incarnation of Christ)


Chữ “nhập thể” trong tiếng La-tinh có nghĩa là “mang xác phàm, lấy tính người”. Chuyện Đấng Tạo Hóa cả vũ trụ tự nguyện giam mình vào trong một phần tử nhỏ bé của cõi tạo vật mênh mông của Ngài, Đấng uy nghi sáng láng hơn cả mặt trời bằng lòng che đậy vinh-hiển Ngài bằng bộ áo xác phàm, là chuyện khó thể tưởng tượng, hầu như không thể tin được, nếu không có những sự kiện cho thấy đó là sự thật.


Mang Tông Tộc Con Người (Human Parentage)

-Phổ Hệ (Genealogies) (Mat Mt 1:1, LuLc 3:23-38)

Hai tác-giả Phúc-Âm vạch gia-hệ tổ-tiên của Chúa. Bản gia phả mở đầu Phúc-âm Ma-thi-ơ chứng-minh Chúa Giê-xu là con vua Đa-vít, là người thừa kế ngôi nước Y-sơ-ra-ên, cũng là con Áp-ra-ham, con của lời-hứa, nhờ Ngài mà mọi gia-tộc trên thế-gian sẽ được phước. Lu-ca không dừng lại ở Áp-ra-ham hay Đa-vít, mà đi thẳng về người đầu tiên, là cha của cả người Do-thái lẫn ngoại bang.


Do Người Nữ Sinh Ra (MatMt 1:18-20, LuLc 1:26-35, GiGa 1:14, GaGl 4:4)

Các sách Công-vụ và thư tín đều có nói đến điều này, nhưng các sách Phúc-Âm còn kể rõ chi-tiết hơn. Cả Ma-thi-ơ và Lu-ca đều chứng nhận rằng sự ra đời của Chúa không phải như một người bình thường.

Theo lời tường thuật, Giô-sép mới hứa hôn với Ma-ri nhưng chưa cưới, lẽ tự nhiên chàng rất buồn khi thấy bằng-chứng cho biết người thiếu nữ yêu không chung thủy với mình. Có lẽ đang đêm, chàng đang nghĩ ngợi không biết tính cách nào để bỏ Ma-ri mà có thể cho nàng khỏi chết - theo luật Do-thái - thì một thiên-sứ hiện dến với chàng và giải thích cho chàng về hành động của Thượng Đế bứt ngang dây chuyền giòng giống con người để đưa vào đời một hữu thể siêu phàm.

Kinh Thánh cho biết Giô-sép đã chấp nhận lời đó và đợi đến khi Ma-ri sinh con xong mới lấy nàng. Lu-ca thuật chuyện thiên-sứ Gáp-ri-ên hiện ra báo tin cho Ma-ri biết sự lạ lùng của Chúa Giê-xu. Khi Ma-ri hỏi làm sao chuyện đó có thể xảy ra được, thì thiên-sứ nhắc nàng rằng “với Đức Chúa Trời, không gì là không thể được”(LuLc 1:37).

Vì Đấng Cứu Thế “bởi người nữ sinh ra”, nên trải qua các đời, Ngài đã tôn-vinh tình mẹ, và chữ “mẹ” đã trở thành tiếng ngọt ngào nhất trong ngôn ngữ loài người. Tại sao Titian, nhà danh họa Ý, khi vẽ Madonna (hình mẹ Ma-ri) đã cho bà mang khuôn mặt Ý? Tại sao Rubens cho hình Madonna của mình mang khuôn mặt Đức? Tại sao Madonna của Reynolds lại có vẻ Anh nhiều hơn? Chắc hẳn vì họ tin rằng mẹ mình tiêu biểu hơn hết cho Ma-ri mẹ của Chúa.


Trải Qua Sự Phát Triển Của Con Người (LuLc 2:40-42, 52)

Về phương diện con người, Chúa Giê-xu phát triển y như những trẻ em khác. Ngài chịu những quy luật chi phối sự phát triển cơ thể cũng như trí tuệ. Tuy nhiên, Ngài luôn luôn biết rằng Ngài thuộc về trời. Dầu bản chất vô-tội của Ngài có ảnh hưởng đến sự phát triển, hiển nhiên Ngài cũng chịu huấn-luyện để được tiến bộ như những người bình thường khác về các phương diện giáo huấn, học hỏi, suy nghĩ.

Làm như vậy, Ngài đã tôn-vinh tuổi thơ. Đấng Toàn Năng đã từng có lần mang đôi mắt trong sáng ngây thơ, cặp chân tay mũm mĩm, mái tóc tơ mềm của một em bé. Món quà vĩ đại nhất Thượng Đế từng ban cho loài người là một em bé. Em bé vô cùng quý giá đến nỗi cả thiên đàng đều phải chú ý, các thiên-sứ đã vạch trần mây, bước xuống để nhìn khi em ra đời.


Mang Những Đặc Tính Con Người (Human Characteristics)

-Hình Dáng Con Người (appearance of a Man) (MatMt 14:24-27, LuLc 24:36-43, GiGa 4:9, 20:15, 19, 20, Phi Pl 2:8)

Thánh Phao-lô nói rằng Ngài “trở nên giống như loài người”(2:7) và chúng ta thấy rằng bà con thân thuộc Ngài đều coi Ngài là người. Người đàn bà Sa-ma-ri nhận biết Ngài là người Do-thái khi thấy nét mặt và nghe tiếng nói của Ngài (GiGa 4:9). Khi Chúa xuất hiện thình lình giữa đêm tối và bước đi trên biển giữa bão tố khiến các môn-đồ sợ hãi, thì Ngài trấn an họ bằng cách nói với họ và bước vào thuyền với họ (MatMt 14:24-27, 32).

Chúng ta không có bức hình nào của Chúa, nhưng không có lời nào trong 4 sách Phúc-Âm khiến ta có thể nghĩ rằng Ngài có hình dáng khác người thường. Chỉ có trong lần hóa hình, họ mới thấy “diện mạo Ngài đổi khác” (LuLc 9:29).

Sau khi sống lại, dường như Chúa vẫn giữ hình thể con người. Tại ngôi mộ, bà Ma-ri lầm tưởng Ngài là người giữ vườn (GiGa 20:15). Hai người môn-đồ đi về Em-ma-út tưởng Ngài là khách đi đường, “một khách lạ ở Giê-ru-sa-lem” (LuLc 24:18).

Ngay cả khi Chúa xuất hiện giữa phòng cao cửa đóng then gài, Ngài cũng chứng-tỏ cho môn-đệ Ngài là con người, bằng cách ăn trước mặt họ, và đưa cho họ xem dấu thương tích của Ngài để họ tin Ngài là Đấng bị đóng đinh (LuLc 24:36-43, GiGa 20:19, 20).

-Chiếc Áo Xác Phàm (Garment of Flesh) (GiGa 1:14, HeDt 2:14, 16, 10:5)

Tân-ước làm chứng cho nhân tính thật của Chúa.

Sứ-đồ Giăng tuyên bố rằng “Lời đã trở nên xác thịt và ở giữa chúng ta”. Về sau ông lại còn cảnh cáo coi chừng chối bỏ sự nhập thể của Chúa (IGi1Ga 4:23). Tác-giả Hê-bơ-rơ cũng nhấn mạnh sự nhập thể khi ông nói rằng Con Thượng Đế “không mang lấy bản chất của thiên-sứ mà lấy nòi giống Áp-ra-ham” (HeDt 2:16).

Đối tượng kế hoạch cứu-rỗi của Thượng Đế không phải là thiên-sứ sa ngã mà là loài người sa ngã. Bởi vậy Con Thượng Đế trở thành người để chết thay cho con người, mang chịu hình án công-bình cho tội-lỗi con người (IICôr2Cr 5:21).

Vì Ngài là người nên Ngài có thể chết thay cho con người; vì Ngài là Thượng Đế nên công tác của Ngài trên thập-tự giá có giá trị vĩnh cửu. Hơn nữa, nhờ sự nhập thể của Con Thượng Đế và sự chết của Ngài trên thập tự giá, quyền lực của Sa-tan trên con người bị bẻ gãy (HeDt 2:14, 15).

-Những Hạn Chế Của Con Người

Chúng ta cần hiểu biết cách đúng đắn về con người của Con Thượng Đế nhập thể. Ngài vừa là Thượng Đế vừa là Người. Địa vị Thượng Đế của Ngài không kém đi vì Ngài là người, nhân-tính của Ngài cũng không bị ảnh hưởng vì Ngài là Thượng Đế. Những hạn chế nói đến trong Kinh Thánh đều do Ngài tự đặt cho mình để hành động trong một số trường hợp thuộc lãnh vực con người. Cũng nên biết rằng sau khi Chúa phục-sinh, những hạn chế đó không còn nữa. Nhân-tính vinh-hiển của Ngài không còn bị đói khát, mệt mỏi, đau đớn, chết chóc nữa.


Về Thể Xác (Physical)

Kinh Thánh cho thấy rằng Chúa tự đặt mình dưới những hạn chế và nhu-cầu của cơ thể con người, dầu người có thể dùng quyền-năng của Ngài để vượt lên trên những hạn chế đó và cung-cấp những nhu-cầu cho mình.

-Ngài đói (Mat Mt 4:2, 21:8): dầu Ngài hóa bánh cho hàng ngàn người ăn, Ngài vẫn cần phải có thức ăn để sống.

-Ngài khát (GiGa 4:7): Ngài cần nước trần gian để đánh tan cơn khát, dầu Ngài có thể ban cho con người nước hằng sống.

-Ngài mệt mỏi và ngủ (Mat Mt 8:24, GiGa 4:6)

-Ngài chịu đau đớn và chết (ICo1Cr 15:3, IPhi 1Pr 4:1)


Về Trí Tuệ (Mac Mc 13:32, LuLc 2:52)

Vì Chúa chúng ta vừa là Thượng Đế vừa là người, nên Ngài có những thuộc-tính dường như mâu thuẫn nhau. Ngài vừa là vô hạn vừa là hữu hạn. Có lúc Ngài tỏ-ra toàn-năng, nhiều khi lại tỏ ra yếu đuối.

Kinh Thánh trình bày Ngài vừa là Đấng toàn-tri (Mat Mt 9:3 GiGa 1:47-49, 10:15), vừa chịu những hiểu biết tiệm tiến, có lúc lại như là không đủ hiểu biết nữa (MacMc 11:13, 13:32, LuLc 2:52).

Rõ ràng là Chúa đã chủ tâm tự hạn chế mình trong những trường hợp này vì những lý-do nào đó mà chỉ có Ngài mới có thể biết được.

-Được Nhìn Nhận Là Con Người (Human Recognition) Chúa Giê-xu được mọi người nhìn nhận là con người. Người ta nói Ngài là:


Giê-xu Người Na-xa-rét (LuLc 18:37, 24:19, GiGa 18:5)

Cả đời Chúa sống tại ngôi làng này, chỉ trừ 3 năm cuối cùng, vì vậy tên Ngài gắn liên với địa danh đó. Thật vậy, rất ít người biết được Ngài ra đời tại Bết-lê-hem, vì vậy kẻ thù Ngài lý-luận rằng Ngài là người Ga-li-lê thì không thể là Đấng Thiên Sai (Mê-si-a) được.

Lời tiên-tri của Kinh Thánh tuyên-bố rằng Đấng Cứu Thế sẽ ra đời tại “Bết-lê-hem là thành vua Đa-vít” nhưng ai cũng cho rằng Ngài là người Na-xa-rét khiến cho cả Ni-cô-đem học thức uyên thâm cũng lung lay niềm tin (GiGa 7:40-52).


Con Trai Của Giô-sép (LuLc 3:23, GiGa 6:42)

Lòng hiếu thảo của Chúa đối với Giô-sép và Ma-ri đã khiến cho mọi người cho rằng Ngài là “con trai người thợ mộc”. Ngay cả những em cùng lớn lên dưới mái nhà với Ngài cũng không chịu công nhận Ngài là Đấng Thiên Sai. Lúc đầu họ còn bỡ ngỡ, về sau họ cho Ngài là kẻ cuồng tín, mơ mộng (MacMc 3:21, GiGa 7:3, 5).


Con Loài Người (Son of Man, nhân tử) (Mat Mt 26:63, 64, GiGa 1:49-51)

Hơn 80 lần trong Phúc-Âm , Chúa Giê-xu tự nhận mình là Con loài người. Hình như Ngài thích danh hiệu này hơn bất cứ danh hiệu nào khác, vì có khi Ngài vừa thừa nhận mình là Con Thượng Đế, Ngài đã dùng ngay danh hiệu Con loài người cho mình. Điều này cho thấy rõ rằng Chúa rất muốn đồng hóa mình với con cái loài người.



HỘI THÁNH TIN LÀNH TRƯỞNG NHIỆM GARDEN GROVE
Quận Cam-vùng nam California
​11832 South Euclid St, Garden Grove,
CA. 92840
Orange County​-Southern California
​Tel: 714-638-4422    

Email: vpcgg.ca@gmail.com

SUBSCRIBE FOR EMAILS

Thanks for submitting!

Copyright Ⓒ 2023-2025 vpcgg (PC-USA). All rights reserved. 

bottom of page